'Sự thật về nạn đói năm 1945' qua góc nhìn của nhà sử học Nguyễn Quang Ân

Nhân dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, nhà sử học Nguyễn Quang Ân ra mắt cuốn sách 'Sự thật về nạn đói năm 1945' (qua tư liệu và ký ức lịch sử) do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật ấn hành.

Đây là công trình nghiên cứu đồ sộ, tập hợp và phân tích hàng trăm tư liệu quý hiếm, kết hợp khảo sát thực địa, nhằm làm rõ bức tranh toàn cảnh của nạn đói năm Ất Dậu.

Nhà sử học Nguyễn Quang Ân.

Nhà sử học Nguyễn Quang Ân.

- Vì sao ông lựa chọn đề tài nạn đói năm 1945 để nghiên cứu và dành nhiều năm cho công trình này?

Đây là một chủ đề lớn, từng được đề cập rải rác trong sử sách nhưng chưa có công trình nào khảo sát toàn diện từ cả tư liệu gốc và điều tra thực địa. Tôi luôn day dứt khi đọc những con số thống kê lạnh lùng: hơn 2 triệu người chết đói chỉ từ cuối năm 1944 đến tháng 8 năm 1945, một phần tư dân số vùng đồng bằng Bắc Bộ khi đó.

Nhưng điều khiến tôi quyết tâm thực hiện là vì thảm họa ấy không chỉ là bi kịch nhân đạo mà còn là nguyên nhân trực tiếp làm bùng nổ cuộc khởi nghĩa toàn dân trong Cách mạng Tháng Tám. Đó là sự kiện gắn liền với vận mệnh quốc gia.

- Ông có thể chia sẻ cụ thể hơn về cách tiếp cận và cấu trúc của cuốn sách?

Tôi xây dựng cuốn sách trên 4 trục nội dung chính. Phần đầu là các tài liệu đương thời do chính quyền Nhật, chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim và cả các tờ báo dưới kiểm soát phát xít công bố. Đây là những tư liệu đặc biệt, phản ánh chính sách bóc lột lương thực, cưỡng bức trồng đay, cấm vận chuyển gạo từ Nam ra Bắc - nguyên nhân trực tiếp gây nạn đói.

Phần hai là các tài liệu nghiên cứu và hồi ký sau nạn đói, gồm cả những ghi chép của nhà văn Tô Hoài, sử gia Trần Huy Liệu, Trần Văn Giàu và các tác giả cuốn sách Lịch sử Việt Nam tập 2 của Viện Khoa học xã hội Việt Nam, do Giáo sư Nguyễn Khánh Toàn chỉ đạo biên soạn.

Phần ba công phu nhất: điều tra thực địa tại 19 điểm thuộc 8 tỉnh, nơi nạn đói diễn ra ác liệt nhất. Chúng tôi phỏng vấn hàng trăm nhân chứng, thu thập dữ liệu định lượng để dựng lại quy mô và hậu quả thực tế.

Cuối cùng, phần bốn là các hoạt động truyền thông, hợp tác quốc tế, khảo cứu của các học giả Việt Nam và nước ngoài như GS. Văn Tạo, GS. Furuta Motoo (Nhật Bản) và GS. Gregg Huff (Anh).

- Trong quá trình điều tra thực địa, có điều gì khiến ông ám ảnh nhất?

Rất nhiều! Ở xã Việt Thuận, Thái Bình, người dân kể rằng mỗi ngày có hàng chục người chết, trẻ em phải nhặt vỏ ốc, rêu nước để ăn. Có người mẹ chết rồi, con vẫn bú trên xác. Ở làng La Khê (Hà Đông), cả làng dệt lụa truyền thống phải bán nhà, bán đồ nhưng vẫn không thoát chết đói. Tôi còn nhớ cụ bà gần trăm tuổi ở Ninh Bình nghẹn ngào nói: "Cái đói năm ấy không chỉ ăn mòn thân xác mà xé nát cả danh dự và tình thân của con người".

- Có quan điểm cho rằng nạn đói chủ yếu do thiên tai gây ra. Cuốn sách của ông khẳng định điều ngược lại?

- Có quan điểm cho rằng nạn đói chủ yếu do thiên tai gây ra. Cuốn sách của ông khẳng định điều ngược lại?

Thiên tai là yếu tố góp phần nhưng nguyên nhân chính là chính sách của phát xít Nhật và thực dân Pháp thu vét thóc gạo, cấm vận chuyển thóc gạo, cưỡng ép trồng đay… đã chặn mọi con đường sống của người dân miền Bắc. Tài liệu cho thấy, chính quyền khi đó còn xử tử người đầu cơ gạo nhưng không phân phát gạo cứu đói hiệu quả. Chúng tôi gọi đó là "nhân họa", không phải thiên tai thuần túy.

- Theo ông, việc nghiên cứu nạn đói 1945 mang ý nghĩa gì trong bối cảnh kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9?

Đây là dịp để chúng ta nhìn lại toàn diện nguyên nhân của một cuộc cách mạng vĩ đại. Người dân đứng lên không chỉ vì yêu nước mà họ bị dồn đến tận cùng của đói nghèo, bất công, mất nhân phẩm. Cái chết không chỉ là cái chết sinh học mà là cái chết của lòng tin vào chế độ cũ. Chính trong hoàn cảnh đó, ngọn cờ độc lập dân tộc do Việt Minh giương cao đã trở thành niềm hy vọng sống còn. Đó là bài học về sự gắn bó giữa dân sinh và dân chủ, giữa cơm ăn áo mặc và khát vọng làm chủ vận mệnh.

- Với ông, "Sự thật về nạn đói năm 1945" không chỉ đơn thuần là một công trình sử học?

Đúng vậy, tôi viết cuốn sách này không chỉ để phục vụ giới nghiên cứu hay để điền vào một khoảng trống tư liệu. Đây là một công trình mang tính nhân văn sâu sắc. Điều tôi muốn làm là trả lại tiếng nói cho những con người đã khuất, hơn 2 triệu đồng bào chết đói không tên tuổi, không bia mộ, thậm chí bị lãng quên trong ký ức tập thể.

Họ không chỉ là nạn nhân của một giai đoạn lịch sử tàn khốc mà còn là nhân chứng âm thầm cho sự phi nhân, bất công và vô cảm của một cơ chế cai trị. Cuốn sách là sự tưởng niệm, là một lời tri ân, nhưng cũng là một tấm gương phản chiếu cho hiện tại.

Chúng ta không thể tách rời lịch sử với những câu hỏi của ngày hôm nay. Khi viết về nạn đói, tôi buộc phải tự hỏi: Làm sao một xã hội có thể để hàng triệu người chết đói giữa đồng bằng màu mỡ? Làm sao những tiếng kêu cứu lại rơi vào im lặng? Và điều đó khiến tôi nghĩ đến sự minh bạch, đến khả năng phản ứng của bộ máy quản trị, đến sự đồng cảm trong xã hội hiện đại. Nếu thiếu lòng nhân ái, thiếu trách nhiệm cộng đồng và thiếu sự giám sát xã hội, bi kịch hoàn toàn có thể tái diễn, dưới những hình thức khác.

Tôi tin rằng lịch sử không sinh ra để oán trách quá khứ hay để cố gắng chỉ mặt ai mà để giúp ta hiểu rõ vì sao một xã hội sụp đổ, vì sao nhân dân lại lựa chọn vùng lên. Và từ đó, ta có thể soi sáng con đường mình đang đi. Viết về quá khứ, nhưng điều tôi mong là mỗi người đọc cuốn sách sẽ nghĩ đến hiện tại và đặt ra câu hỏi: Chúng ta đang bảo vệ quyền sống, quyền được chăm lo như thế nào cho những người yếu thế hôm nay?

Ảnh: NVCC

Tình Lê

Nguồn VietnamNet: https://vietnamnet.vn/su-that-ve-nan-doi-nam-1945-qua-goc-nhin-cua-nha-su-hoc-nguyen-quang-an-2427084.html
Zalo