Sỏi thận phổ biến nhưng dễ bị bỏ quên
Khi không được điều trị kịp thời, sỏi thận có thể gây ra nhiều biến chứng nặng nề như viêm thận, áp xe quanh thận, giãn bể thận, ứ nước, ứ mủ, xơ hóa quanh thận hoặc suy thận.

Sỏi thận lấy từ bệnh nhân 70 tuổi. Ảnh: BVCC.
Sỏi thận là bệnh lý phổ biến nhất của hệ tiết niệu và có đặc điểm dễ tái phát. Ở Việt Nam, với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm khiến cơ thể thường xuyên mất nước, tình trạng này càng trở nên phổ biến, khiến nước ta được coi là một trong những "vùng dịch tễ" của bệnh sỏi thận.
Căn bệnh phổ biến nhưng dễ bị xem nhẹ
PGS.TS Hoàng Long, Phó trưởng khoa Phẫu thuật Tiết niệu, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, cho biết sỏi tiết niệu chiếm 45-50% các bệnh lý tiết niệu tại Việt Nam, với tỷ lệ mắc khoảng 0,5-2‰ dân số. Nam giới chiếm 60%, cao hơn nữ giới (40%). Lứa tuổi thường gặp là 30-60, chiếm đến 75-80%.
Theo bác sĩ Long, sỏi có nhiều dạng khác nhau. Sỏi đài thận thường tròn hoặc đa giác, có thể chỉ một hoặc nhiều viên, nằm ở đài dưới hoặc đài giữa. Sỏi bể thận thường có dạng tam giác hoặc đa diện, kích thước 10-30 mm, khuôn theo hình bể thận với đầu nhọn hướng về phía cột sống. Trường hợp nghiêm trọng nhất là sỏi san hô, khi sỏi lấp đầy toàn bộ đài và bể thận, kích thước có thể lên đến 30-40 mm.
Nguyên nhân hình thành sỏi liên quan đến yếu tố địa lý, khí hậu, chế độ ăn uống và các rối loạn chuyển hóa. Người bệnh có thể bị tăng canxi máu, canxi niệu, thay đổi pH nước tiểu, dị dạng đường tiết niệu bẩm sinh hoặc hẹp niệu quản mắc phải dẫn đến ứ đọng nước tiểu. Ngoài ra, mất nước, nằm bất động lâu ngày, cường tuyến cận giáp hay chế độ ăn nhiều canxi cũng làm tăng nguy cơ sỏi thận.
Về triệu chứng, nhiều bệnh nhân không cảm nhận rõ ràng và chỉ phát hiện khi đi khám sức khỏe định kỳ. Một số khác có dấu hiệu đau âm ỉ vùng thắt lưng, hoặc xuất hiện cơn đau quặn thận dữ dội khi sỏi gây tắc nghẽn bể thận-niệu quản. Đau có thể lan xuống bụng dưới, bìu, kèm buồn nôn và bụng chướng.

PGS.TS Hoàng Long, Phó trưởng khoa Phẫu thuật Tiết niệu, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, thăm khám cho bệnh nhân. Ảnh: BSCC.
"Người bệnh còn có thể đái ra máu do sỏi cọ xát vào niêm mạc đường tiết niệu. Nếu kèm nhiễm khuẩn, bệnh nhân sốt cao, tiểu đục, đau vùng thắt lưng, thậm chí rơi vào sốc nhiễm trùng nguy hiểm tính mạng", bác sĩ Long cho hay.
Khi không được điều trị kịp thời, sỏi thận có thể gây ra nhiều biến chứng nặng nề như viêm thận, áp xe quanh thận, giãn bể thận, ứ nước, ứ mủ thận, xơ hóa quanh thận, cao huyết áp hoặc suy thận do tắc nghẽn kéo dài.
Theo PGS.TS Đỗ Gia Tuyển, Bệnh viện Bạch Mai, trong các loại sỏi, phổ biến nhất là sỏi canxi, chiếm tới 80-90%, bao gồm canxi oxalat, canxi phosphat hoặc hỗn hợp cả hai. Ngoài ra, còn có các loại sỏi hiếm gặp hơn như sỏi struvit, sỏi acid uric hay sỏi cystin. Thành phần sỏi có sự khác biệt nhất định tùy vào điều kiện địa lý và chế độ ăn uống của người bệnh ở từng vùng.
Vị chuyên gia cho hay những người có bệnh lý nền như gout, rối loạn chuyển hóa, dị dạng đường tiết niệu, tăng acid uric hay tăng canxi máu cũng dễ hình thành sỏi.
Điều trị như thế nào?
Hiện nay, các phương pháp điều trị hiện đại đã thay thế phần lớn phẫu thuật mở. PGS Hoàng Long cho hay tán sỏi thận qua da (PCNL) là kỹ thuật phổ biến, sử dụng đường hầm nhỏ qua da để tiếp cận và tán vỡ sỏi, đặc biệt hiệu quả với sỏi lớn trên 2 cm. Đây được xem là phương pháp tối ưu, giúp làm sạch sỏi triệt để, ít xâm lấn hơn so với mổ truyền thống.
Ngoài ra, tán sỏi nội soi ngược dòng bằng ống soi mềm (FURS) cũng mang lại hiệu quả cao đối với sỏi dưới 2,5 cm. Sỏi được tán nhỏ bằng laser và lấy ra bằng dụng cụ chuyên biệt. Với sỏi nhỏ hơn 20 mm, bác sĩ có thể chỉ định tán sỏi ngoài cơ thể (ESWL), sử dụng sóng xung kích làm vỡ sỏi thành mảnh nhỏ để tự đào thải qua đường tiểu.
Bác sĩ chuyên khoa II Ngô Thị Vân, Trung tâm Thận tiết niệu và Lọc máu, Bệnh viện Bạch Mai, cũng cho biết ESWL giúp bệnh nhân loại bỏ sỏi mà không cần mổ. Quy trình chỉ kéo dài khoảng 30 đến 60 phút, không cần đặt ống thông, và người bệnh có thể về nhà ngay trong ngày, sinh hoạt bình thường sau một đến hai ngày. Trong số các phương pháp điều trị, tán sỏi ngoài cơ thể được xem là bước tiến vượt trội.

Tán sỏi thận qua da (PCNL) là kỹ thuật phổ biến, sử dụng đường hầm nhỏ qua da để tiếp cận và tán vỡ sỏi, đặc biệt hiệu quả với sỏi lớn trên 2 cm. Ảnh: BVCC.
Trong những trường hợp sỏi san hô phức tạp, sỏi gây biến chứng nặng hoặc thất bại với các biện pháp ít xâm lấn, bệnh nhân có thể phải phẫu thuật.
Dù an toàn, bệnh nhân vẫn cần chú ý theo dõi sức khỏe sau khi tán sỏi. Việc tiểu ra máu hoặc đau nhẹ vùng thắt lưng là bình thường, nhưng nếu xuất hiện sốt cao hoặc bí tiểu, cần đến bệnh viện ngay.
Bác sĩ Vân khuyến cáo bệnh nhân nên uống 2-3 lít nước mỗi ngày giúp đẩy nhanh quá trình đào thải sỏi vụn. Ngoài ra, tái khám định kỳ bằng siêu âm hoặc chụp X-quang là cần thiết để kiểm tra sỏi đã được loại bỏ hoàn toàn, hạn chế nguy cơ sót sỏi hoặc tái phát.
"Điều trị thành công mới chỉ là một nửa hành trình, thay đổi lối sống mới là chìa khóa để phòng ngừa tái phát. Người dân nên giảm muối trong khẩu phần ăn, hạn chế tiêu thụ quá nhiều đạm động vật, duy trì cân bằng giữa canxi và oxalat", bác sĩ Vân nói.
Việc vận động thể chất thường xuyên cũng góp phần quan trọng trong việc ngăn ngừa sỏi. Đặc biệt, nếu trong gia đình có người từng mắc bệnh hoặc khi xuất hiện các dấu hiệu tiểu buốt, tiểu rắt, nên chủ động đi kiểm tra sớm.
"Sỏi nhỏ dễ điều trị và ít biến chứng hơn nhiều. Nếu được phát hiện sớm, việc điều trị sẽ nhẹ nhàng và hiệu quả hơn rất nhiều", bác sĩ Vân nhắn nhủ.