Số hóa tài nguyên rác tái chế - Những đề xuất thí điểm cho Vùng Thủ đô Hà Nội

Số hóa tài nguyên rác hướng đến 'nền kinh tế dữ liệu vật liệu' là việc biến rác thải thành tài nguyên dữ liệu, dùng dữ liệu ấy để điều hành, định giá và tái cấu trúc nền kinh tế tuần hoàn.

Lời tòa soạn

Lời tòa soạn

Trong kỷ nguyên chuyển đổi xanh - số, “rác” không còn là thứ cần loại bỏ mà đang dần được nhìn nhận như một tài nguyên dữ liệu. Khi mọi bao bì, chai nhựa hay lon nhôm đều có thể được truy xuất bằng mã số, dòng vật liệu ấy mang trong mình cả giá trị vật chất lẫn giá trị thông tin.

Số hóa tài nguyên rác hướng đến “nền kinh tế dữ liệu vật liệu” là việc biến rác thải thành tài nguyên dữ liệu, dùng dữ liệu ấy để điều hành, định giá và tái cấu trúc nền kinh tế tuần hoàn. Đây được xem là bước đi cần thiết cho tương lai bền vững, vì một Việt Nam xanh. Trong đó, Hà Nội nói riêng và Vùng Thủ đô nói chung có điều kiện để trở thành “đầu tàu” thí điểm, sau đó nhân rộng ra cả nước.

Tuy nhiên, trong bối cảnh phân loại rác tại nguồn còn gặp nhiều vướng mắc cũng như hạn chế về tài chính, các giới hạn về hành chính… số hóa tài nguyên rác tái chế để biến rác thành “vàng” cần một giải pháp có tính liên hoàn từ các cơ quan quản lý nhà nước, các cấp chính quyền địa phương liên Vùng Thủ đô.

Nằm trong tuyến bài “Tái thiết môi trường liên vùng Thủ đô: Từ quy hoạch chiến lược đến giải pháp hành động”, đồng thời để hiểu rõ hơn về xu hướng số hóa tài nguyên rác tái chế hướng đến NetZero, đặc biệt với Vùng Thủ đô Hà Nội khi các chỉ tiêu tăng trưởng gắn liền với bảo vệ môi trường, Tạp chí điện tử Kinh tế môi trường đã có cuộc trò chuyện với TS Bùi Thị Thanh Hương, người có nhiều năm nghiên cứu mô hình kinh tế tuần hoàn và là trưởng nhóm dự án VNNETZERO của Đại học Quốc gia Hà Nội, một sáng kiến thử nghiệm hệ thống thu gom thông minh, tích hợp dữ liệu EPR và carbon tại Việt Nam.

Thưa TS Bùi Thị Thanh Hương, “số hóa tài nguyên rác” là khái niệm mới hay chỉ là việc ứng dụng công nghệ vào quản lý chất thải?

Thưa TS Bùi Thị Thanh Hương, “số hóa tài nguyên rác” là khái niệm mới hay chỉ là việc ứng dụng công nghệ vào quản lý chất thải?

TS Bùi Thị Thanh Hương: Khái niệm “số hóa tài nguyên rác” thực chất không chỉ nói về việc gắn mã QR lên một chiếc chai hay theo dõi khối lượng vật liệu tái chế, mà là sự thay đổi cách con người định nghĩa giá trị của vật chất đã qua sử dụng. Khi mọi sản phẩm, bao bì và vật liệu được đưa vào một hệ thống có thể ghi nhận, đo đếm, truy xuất và định danh, thì “rác” không còn là thứ bị loại bỏ mà trở thành một dòng dữ liệu có giá trị kinh tế và môi trường.

Ở góc nhìn học thuật, đây là sự mở rộng phạm trù “tài nguyên” - từ vật chất hữu hình sang thông tin định lượng. Tại Việt Nam, việc số hóa tài nguyên rác giúp chuyển từ mô hình quản lý dựa trên tuyên truyền và kiểm soát sang mô hình dựa trên minh chứng dữ liệu và hành vi thực tế. Điều này cho phép đo lường chính xác đóng góp của từng người, từng tổ chức vào quá trình giảm phát thải. Nói cách khác, số hóa tài nguyên rác là nền tảng để hình thành “kinh tế dữ liệu vật liệu” - nơi mỗi gram nhựa hay nhôm đều có giá trị thông tin tương đương một đơn vị tín chỉ carbon trong tương lai gần.

Trong mô hình “nền kinh tế dữ liệu vật liệu”, dữ liệu tái chế chính là “hệ thần kinh” của nền kinh tế tuần hoàn số. Nó cho phép minh bạch hóa vòng đời vật liệu, từ sản xuất - tiêu dùng - tái chế; chuẩn hóa dữ liệu EPR (Extended Producer Responsibility - trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất) để doanh nghiệp chứng minh lượng phát thải giảm; tạo cơ sở cho thị trường tín chỉ vật liệu tái sinh, tương tự tín chỉ carbon.

Ở tầng sâu hơn, việc số hóa tài nguyên rác còn được xem là một triết lý tái sinh: biến vật chất thành thông tin, giúp con người “đối thoại với tự nhiên bằng ngôn ngữ dữ liệu” - một hành trình hòa giải giữa kinh tế, công nghệ và đạo đức môi trường, nơi tri thức và vật chất cùng tái tạo trong chu trình phát triển bền vững.

“Số hóa tài nguyên rác hướng đến nền kinh tế dữ liệu vật liệu” là việc biến rác thải thành tài nguyên dữ liệu, dùng dữ liệu ấy để điều hành, định giá và tái cấu trúc nền kinh tế tuần hoàn. Trong đó, mỗi gram rác mang giá trị thông tin tương đương một đơn vị tín chỉ carbon và Vùng Thủ đô Hà Nội được xem là nơi có thể thí điểm mô hình này đầu tiên.

Việc kết nối dữ liệu rác với dữ liệu carbon có thể giúp hình thành “bản đồ tài nguyên rác tái chế quốc gia” ra sao?

TS Bùi Thị Thanh Hương: Mỗi lon nhôm, mỗi chai nhựa mang trong nó một lượng phát thải tránh được. Nếu dữ liệu tái chế được tích hợp với dữ liệu carbon, ta có thể tạo ra “bản đồ tài nguyên rác tái chế quốc gia” - mô hình mô tả luồng tuần hoàn của tài nguyên thứ sinh. Bản đồ ấy giúp Nhà nước nhận diện “điểm nghẽn vật liệu”, điều chỉnh hạ tầng đầu tư và EPR; đồng thời cho phép doanh nghiệp chứng minh lượng phát thải giảm thực, tham gia thị trường tín chỉ carbon. Khi vật liệu được định danh bằng dữ liệu, chuỗi tuần hoàn trở nên minh bạch, có thể định giá và giao dịch.

Liệu Việt Nam có thể xây dựng thị trường tín chỉ rác tái chế tương tự tín chỉ carbon?

TS Bùi Thị Thanh Hương: Hoàn toàn có cơ sở. Khi dữ liệu tái chế được chuẩn hóa, nó trở thành “yếu tố sản xuất thế hệ mới” - tương đương lao động hay vốn. Một kilogram PET tái sinh có hồ sơ dữ liệu minh bạch sẽ có giá trị cao hơn vật liệu vô danh. Khi ấy, dữ liệu tái chế trở thành chứng chỉ để trao đổi: doanh nghiệp có thể bán tín chỉ vật liệu tái sinh (Recycled Material Credit) cho những bên cần bù trừ trách nhiệm EPR. Việt Nam, nếu đi sớm, có thể xây dựng hệ thống kép: tín chỉ carbon + tín chỉ vật liệu, vừa tạo động lực kinh tế, vừa đảm bảo công bằng môi trường.

Chuẩn hóa dữ liệu EPR có làm thay đổi cấu trúc chi phí và lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp?

Chuẩn hóa dữ liệu EPR có làm thay đổi cấu trúc chi phí và lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp?

TS Bùi Thị Thanh Hương: Rất rõ ràng. Khi dữ liệu tái chế được xác thực, chi phí tuân thủ EPR giảm mạnh vì không cần kiểm tra chéo tốn kém. Doanh nghiệp minh bạch dữ liệu sẽ có lợi thế vì có thể thương mại hóa tín chỉ EPR hoặc nhận ưu đãi thuế xanh. Lợi thế cạnh tranh tương lai không nằm ở giá rẻ, mà ở năng lực dữ liệu và minh bạch môi trường - thứ giúp doanh nghiệp trở thành đối tác tin cậy trong chuỗi cung ứng NetZero toàn cầu.

Tại sao bà cho rằng “kinh tế dữ liệu vật liệu” có thể trở thành hướng đi mới cho các đô thị, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội?

Tại sao bà cho rằng “kinh tế dữ liệu vật liệu” có thể trở thành hướng đi mới cho các đô thị, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội?

TS Bùi Thị Thanh Hương: Bởi vì Hà Nội đang ở điểm giao thoa giữa áp lực môi trường và cơ hội dữ liệu. Mỗi ngày thành phố phát sinh hơn 7.000 tấn rác nhưng lại đồng thời là nơi tập trung nhiều trường đại học, doanh nghiệp công nghệ và trung tâm nghiên cứu lớn nhất cả nước. Đó là điều kiện lý tưởng để biến rác thải thành dữ liệu học - nơi dòng vật chất và dòng dữ liệu song hành.

Nếu một ngày, mỗi phường của Hà Nội có thể thống kê chính xác lượng nhựa, nhôm, giấy được tái chế và quy đổi sang lượng phát thải tránh được, chúng ta sẽ có được bản đồ vật liệu tái sinh đô thị. Từ đó, thành phố có thể điều chỉnh hạ tầng thu gom, ưu tiên khu vực phát thải cao, và cấp tín chỉ carbon nội vùng. Đây là cách để Hà Nội chuyển từ “đô thị tiêu thụ” sang “đô thị tái sinh”.

Số hóa tài nguyên rác tái chế hướng đến “nền kinh tế dữ liệu vật liệu” cần những giải pháp căn cơ nào cho Vùng Thủ đô Hà Nội?

TS Bùi Thị Thanh Hương: Số hóa tài nguyên rác sẽ góp phần giải bài toán ô nhiễm môi trường tại Hà Nội và rộng hơn là Vùng Thủ đô. Để việc này thực sự hiệu quả, cần sự “bắt tay” của các cơ quan quản lý nhà nước, các cấp chính quyền địa phương liên vùng - như nhận định của PGS.TS Trương Mạnh Tiến, Chủ tịch Mạng lưới Bảo tồn Nguồn nước Việt Nam (VIWACON).

Trong đó, Hà Nội cần là nơi tiên phong triển khai các biện pháp bảo vệ môi trường như việc số hóa tài nguyên rác tái chế. Có thể điểm ra một số giải pháp căn cơ cho Hà Nội:

1. Giải pháp về kiểm toán rác - nền tảng quản trị thực chứng

Hà Nội có thể trở thành đô thị đầu tiên triển khai “kiểm toán rác đô thị”, tương tự như kiểm toán năng lượng. Hệ thống này đo lường, truy xuất và định danh toàn bộ dòng rác - từ phát sinh, thu gom đến tái chế - qua các thiết bị cảm biến và trạm thông minh.

Việc chuẩn hóa dữ liệu EPR cho phép thành phố đánh giá minh bạch lượng rác được tái sinh, quy đổi sang lượng CO₂ tránh phát thải. Điều này giúp Hà Nội hình thành “bản đồ tài nguyên rác tái chế đô thị”, hỗ trợ quy hoạch hạ tầng tái chế và lập báo cáo phát thải chính xác.

2. Giải pháp công nghệ xanh - xây dựng hệ sinh thái dữ liệu tái chế

Rác thải đô thị chính là một “mỏ dữ liệu” nếu được kết nối bằng công nghệ. Hà Nội nên phát triển Cổng dữ liệu mở về tái chế, kết nối dữ liệu từ các trạm thu gom (như hệ thống VNNetZero của Đại học Quốc gia Hà Nội, doanh nghiệp EPR và tổ chức tái chế.

Mỗi sản phẩm được gắn mã định danh QR; mỗi hành động tái chế đều ghi nhận trên nền tảng dữ liệu mở. Khi đó, rác không còn là gánh nặng xử lý mà trở thành tài sản dữ liệu có thể đo đếm, định giá và giao dịch, tạo cơ sở cho thị trường tín chỉ vật liệu tái sinh và tài chính carbon đô thị

3. Giải pháp về trí tuệ nhân tạo - “bộ não” của kinh tế dữ liệu vật liệu

Trí tuệ nhân tạo (AI) giúp nhận diện, phân loại và dự báo luồng rác đô thị theo thời gian thực. Hà Nội có thể triển khai hệ thống AI giám sát rác tại các trạm VNNetZero, sử dụng camera nhận dạng vật liệu (PET, nhôm, giấy, thủy tinh) và phân tích dữ liệu từ cảm biến trọng lượng.

Ngoài ra, AI còn có khả năng phát hiện gian lận trong báo cáo EPR, hỗ trợ các cơ quan quản lý trong việc xác minh lượng tái chế thực. Khi được kết hợp với mô hình đánh giá vòng đời sản phẩm (LCA), AI sẽ giúp chuyển từ quản lý ước lượng sang quản lý thực chứng.

4. Giải pháp thể chế - kết nối pháp lý liên ngành

Một điểm nghẽn lớn hiện nay là sự phân mảnh pháp lý giữa Luật Môi trường, Luật Chuyển đổi số và Nghị định EPR. Mỗi khung luật điều chỉnh một phần của dòng dữ liệu môi trường, nhưng chưa có “nền tảng quản trị vòng đời tài nguyên số” thống nhất.

Giải pháp căn cơ là ban hành Thông tư liên ngành MONRE-MIC-MOST-UBND Hà Nội về quản lý dữ liệu môi trường số, cho phép các doanh nghiệp và viện - trường thí điểm tích hợp dữ liệu rác tái chế vào hạ tầng số thành phố mà không phải xin phép nhiều cấp quản lý.

5. Giải pháp về văn hóa dữ liệu xanh

Cuối cùng, để hệ thống dữ liệu vận hành bền vững, người dân cần trở thành chủ thể dữ liệu chứ không chỉ là người phát sinh rác.

Khi hành vi phân loại rác được ghi nhận qua ứng dụng, phản hồi bằng điểm thưởng hoặc “tín chỉ carbon công dân”, mỗi cá nhân sẽ có “hồ sơ môi trường cá nhân” - một phần trong “văn hóa dữ liệu xanh” của đô thị văn minh.

Khi người dân hiểu rằng mỗi lần quét mã gửi rác là một hành động ghi vào lịch sử phát triển của thành phố, họ sẽ không cần ai nhắc nữa.

Hệ thống dữ liệu có thể giúp chuyển từ ước lượng sang đo đếm thực chứng tác động môi trường như thế nào, thưa Tiến sĩ?

Hệ thống dữ liệu có thể giúp chuyển từ ước lượng sang đo đếm thực chứng tác động môi trường như thế nào, thưa Tiến sĩ?

TS Bùi Thị Thanh Hương: Với dữ liệu thời gian thực, mỗi chai - lon được ghi nhận là một đơn vị carbon giảm phát thải. Kết hợp với mô hình đánh giá vòng đời (LCA), ta có thể tính chính xác năng lượng tiết kiệm, CO₂ tránh được và cả lợi ích xã hội. Đây là sự chuyển đổi từ “báo cáo định tính” sang “chứng cứ thực chứng”. Một hệ thống như EcoFusion minh họa rõ điều đó: mỗi người dùng có “hồ sơ môi trường cá nhân”, còn nhà quản lý có dữ liệu tức thời cho quy hoạch và tín chỉ carbon.

Vậy cơ chế quản trị nào sẽ bảo đảm minh bạch, chia sẻ và an ninh cho dữ liệu này?

TS Bùi Thị Thanh Hương: Cần coi dữ liệu môi trường là hạ tầng tri thức công cộng, không chỉ là tài sản kỹ thuật. Ba nguyên tắc phải được thiết lập: minh bạch - chia sẻ - an ninh. Minh bạch đòi hỏi xác định quyền sở hữu dữ liệu: ai là chủ của dữ liệu tái chế - người dân, doanh nghiệp hay Nhà nước?

Chia sẻ yêu cầu xây dựng Cổng dữ liệu mở quốc gia về tái chế, nơi doanh nghiệp và viện trường có thể truy cập dữ liệu tổng hợp để nghiên cứu, đổi mới và giám sát chính sách.

Còn an ninh dữ liệu đòi hỏi cơ chế bảo mật, tránh thương mại hóa vô trách nhiệm. Mô hình lý tưởng là hệ sinh thái dữ liệu đa chủ thể, Nhà nước điều phối, doanh nghiệp đầu tư hạ tầng, viện trường xác thực, và người dân làm chủ nguồn dữ liệu.

Có thể hình dung một hệ sinh thái dữ liệu mở cho tài nguyên rác tái chế không, thưa Tiến sĩ?

Có thể hình dung một hệ sinh thái dữ liệu mở cho tài nguyên rác tái chế không, thưa Tiến sĩ?

TS Bùi Thị Thanh Hương: Không những có thể mà còn là xu thế tất yếu. Trường đại học đóng vai trò cơ quan thẩm định dữ liệu, doanh nghiệp cung cấp hạ tầng cảm biến và nền tảng, còn Nhà nước ban hành cơ chế giấy phép dữ liệu linh hoạt để dữ liệu có thể thương mại hóa có kiểm soát. Nếu làm được, Việt Nam sẽ xây dựng được “hệ thống tài nguyên rác tái chế” quốc gia - một cơ sở dữ liệu mô tả dòng tái sinh vật chất, giúp chính sách, khoa học và kinh tế vận hành trên cùng nền tri thức.

Là người đã nhiều năm nghiên cứu về lĩnh vực môi trường, theo TS, sự phân mảnh pháp lý giữa Luật Môi trường, Luật Chuyển đổi số và Nghị định EPR có gây khoảng trống chính sách?

TS Bùi Thị Thanh Hương: Đúng vậy. Sự phân mảnh này đang tạo ra một “vùng xám chính sách” khá rõ, và chính vùng xám đó khiến cho nhiều dự án số hóa môi trường (như quản lý rác tái chế, tín chỉ carbon, dữ liệu EPR) gặp khó khi bước ra khỏi giai đoạn thử nghiệm.

Luật Bảo vệ Môi trường (2020) là nền tảng về nguyên tắc - nó định nghĩa EPR và yêu cầu doanh nghiệp thu hồi, tái chế, hoặc đóng góp tài chính vào quỹ môi trường. Nhưng nó chỉ dừng ở “nghĩa vụ môi trường”. Trong khi đó, Luật Chuyển đổi số lại thuộc Bộ Thông tin & Truyền thông (cũ), tập trung vào hạ tầng dữ liệu, định danh số, bảo mật và chuẩn kết nối. Hai hệ thống này gần như không có “điểm giao vận hành”.

Khi Nghị định EPR (Decree 08/2022 và các Thông tư hướng dẫn) đi vào chi tiết, nó lại thiếu quy định về “cơ chế dữ liệu”: ai chịu trách nhiệm cung cấp dữ liệu truy xuất rác, lưu trữ trên nền tảng nào, quyền sở hữu dữ liệu tái chế thuộc về ai, và các nền tảng số có được tham gia vào chuỗi xác minh tín chỉ carbon hay không. Vì vậy, doanh nghiệp công nghệ môi trường muốn kết nối hệ thống dữ liệu rác (VNNetZero, Sparklo hay Bottol) với nền tảng quản lý nhà nước thì… không có cổng vào rõ ràng.

Hệ quả là ba trục pháp lý - môi trường, số hóa và trách nhiệm mở rộng - đang chạy song song chứ chưa tích hợp. Giống như có ba con đường cùng hướng tới “NetZero”, nhưng mỗi con đường lại do một cơ quan quản lý khác nhau, tiêu chuẩn khác nhau, và bản đồ dữ liệu không khớp.

Luật Môi trường quy định cái “phải làm”, Luật Chuyển đổi số nói cái “có thể làm”, còn Nghị định EPR chưa xác định rõ “làm bằng cách nào và ai chịu trách nhiệm về dữ liệu”. Chính khoảng trống đó khiến Việt Nam vẫn đang thiếu một “nền tảng quản trị vòng đời tài nguyên số” - thứ mà Nhật, Hàn và EU đã xây dựng từ lâu để nối liền EPR, dữ liệu, và tài chính carbon.

Từ đây, hướng cải thiện hợp lý là ban hành Thông tư liên ngành hoặc khung thử nghiệm chính sách linh hoạt môi trường số, nơi các doanh nghiệp công nghệ xanh được phép thử nghiệm tích hợp dữ liệu môi trường vào hạ tầng số quốc gia mà không phải “xin phép ba bộ khác nhau”.

Nếu coi phân loại rác là hành vi công dân, điều đó sẽ thay đổi văn hóa dữ liệu môi trường thế nào?

Nếu coi phân loại rác là hành vi công dân, điều đó sẽ thay đổi văn hóa dữ liệu môi trường thế nào?

TS Bùi Thị Thanh Hương: Khi hành vi môi trường trở thành hành vi công dân, ta tạo ra nền văn hóa dữ liệu cộng đồng. Người dân không hành động vì sợ phạt mà vì niềm tin rằng hành vi nhỏ của họ có giá trị xã hội. Mỗi lần quét mã gửi rác, công dân đang “ghi một dòng dữ liệu tích cực” vào lịch sử phát triển. Văn hóa ấy giúp hình thành bản sắc mới - nơi dữ liệu trở thành biểu tượng của đạo đức và văn minh đô thị.

Niềm tin xã hội vào hệ thống dữ liệu công là điều kiện tiên quyết. Việt Nam cần gì để tạo dựng nó?

Niềm tin xã hội vào hệ thống dữ liệu công là điều kiện tiên quyết. Việt Nam cần gì để tạo dựng nó?

TS Bùi Thị Thanh Hương: Ba yếu tố: minh bạch - phản hồi - bảo chứng. Minh bạch giúp người dân hiểu dữ liệu được dùng ra sao. Phản hồi khiến họ thấy kết quả - “khu phố tôi giảm 1 tấn CO₂”. Và bảo chứng đến từ bên thứ ba - các trường đại học, viện nghiên cứu - đảm bảo dữ liệu không bị thao túng. Khi công nghệ gắn liền với minh bạch khoa học, ta tạo ra nền dân chủ dữ liệu môi trường, nơi niềm tin là năng lượng vận hành hệ thống.

“Rác không biến mất, chỉ thay đổi trạng thái” có thể được hiểu như thế nào trong hành trình NetZero?

TS Bùi Thị Thanh Hương: Đó là một triết lý tái sinh. Rác là tấm gương phản chiếu mô hình phát triển - phần bóng của tiêu dùng. Khi số hóa, ta biến vật chất thành dữ liệu, cho phép con người đối thoại với tự nhiên bằng ngôn ngữ số. Rác không còn là tội lỗi mà là lời nhắc về giới hạn và trách nhiệm. Số hóa tài nguyên rác, ở tầng sâu, là sự hòa giải giữa con người và Trái Đất - nơi tri thức, đạo đức và vật chất cùng quay về chu trình của sự sống.

Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội khóa XVIII, nhiệm kỳ 2025-2030, có một số “điểm nhấn” về môi trường. Tiến sĩ có thể đưa ra một số nhận định cá nhân về vấn đề này?

TS Bùi Thị Thanh Hương: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XVII, nhiệm kỳ 2025-2030, nhấn mạnh, Hà Nội xác định quan điểm phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với quá trình chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, phát triển kinh tế tuần hoàn. Trong đó, Hà Nội chú trọng phát triển hài hòa giữa kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường và thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân.

Đó là quan điểm chung, nhất quán của Hà Nội về vấn đề bảo vệ môi trường. Đối với rác thải, Hà Nội xác định xử lý rác thải theo hướng hiện đại hóa công nghệ xử lý rác bằng công nghệ đốt phát điện để thay thế chôn lấp, đồng thời đẩy mạnh phân loại rác tại nguồn. Thành phố hướng tới mục tiêu xử lý triệt để rác thải, giảm thiểu tác động môi trường và xây dựng mô hình kinh tế tuần hoàn.

Riêng với rác thải nhựa, PGS.TS Lưu Đức Hải - Chủ tịch Hội Kinh tế môi trường Việt Nam - từng nhấn mạnh, cần tổ chức quản lý thu gom, phân loại tái sử dụng chất thải nhựa theo mô hình kinh tế tuần hoàn; đồng thời, tăng cường áp dụng các giải pháp công nghệ kỹ thuật để xử lý chất thải nhựa. Ngoài ra, PGS.TS Lưu Đức Hải cho rằng cũng cần chú trọng áp dụng các công cụ kinh tế môi trường trong sản xuất, kinh doanh và xử lý chất thải nhựa (thuế môi trường sản phẩm nhựa, xử phạt vi phạm hành chính về thải bỏ chất thải nhựa) đồng thời nâng cao công tác giáo dục, truyền thông cho tất cả tầng lớp dân cư về ô nhiễm nhựa.

Từ quan điểm chỉ đạo chung của Hà Nội cho đến ý kiến các chuyên gia về môi trường, theo cá nhân tôi, việc xây dựng văn hóa bảo vệ môi trường đối với từng người dân Thủ đô là vô cùng cần thiết, là điều kiện tiên quyết để kiểm soát, hướng tới giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường, trong đó có rác thải. Đó vừa là biểu hiện của hệ giá trị con người Hà Nội thanh lịch, văn minh, vừa là điều kiện tiên quyết để xây dựng Thủ đô văn hiến - văn minh - hiện đại.

“Số hóa tài nguyên rác tái chế hướng đến nền kinh tế dữ liệu vật liệu” không chỉ là một sáng kiến công nghệ, mà là một cuộc tái cấu trúc triết học - thể chế - và hành vi trong quản lý tài nguyên đô thị. Khi rác được chuyển hóa thành dữ liệu, nó không còn là vật chất thừa thãi mà trở thành tài sản thông tin, có thể đo đếm, định danh, và giao dịch. Dữ liệu ấy trở thành “hệ thần kinh” của nền kinh tế tuần hoàn số, nơi từng chai nhựa, lon nhôm hay mảnh giấy đều góp phần vào chuỗi giá trị giảm phát thải và đổi mới sáng tạo.

Với Vùng Thủ đô, đặc biệt là Hà Nội, đây không chỉ là bài toán môi trường, mà còn là cơ hội định vị lại năng lực quản trị đô thị trong kỷ nguyên dữ liệu. Khi thành phố biết chính xác rác đi đâu, tái sinh thế nào và phát thải giảm bao nhiêu, mọi chính sách - từ EPR đến carbon nội vùng - đều có thể vận hành dựa trên chứng cứ thực chứng, chứ không phải ước lượng.

Từ kiểm toán rác, hạ tầng công nghệ xanh, đến ứng dụng trí tuệ nhân tạo và thể chế liên ngành, Hà Nội hoàn toàn có thể trở thành phòng thí nghiệm chính sách đầu tiên cho “kinh tế dữ liệu vật liệu” của Việt Nam. Khi đó, rác - dữ liệu - tri thức không còn tách biệt, mà cùng vận hành trong một chu trình mới: chu trình của trí tuệ môi trường, nơi công nghệ và văn hóa công dân xanh trở thành động lực cho hành trình NetZero 2050.

Duy Khánh

Nguồn Kinh tế Môi trường: https://kinhtemoitruong.vn/so-hoa-tai-nguyen-rac-tai-che-nhung-de-xuat-thi-diem-cho-vung-thu-do-ha-noi-102801.html