Số hóa di sản, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc
Ứng dụng công nghệ không chỉ góp phần gìn giữ giá trị văn hóa của các tộc người mà còn có vai trò quan trọng để lan tỏa, biến giá trị đó trở thành nguồn lực, góp phần phát huy 'sức mạnh mềm' văn hóa các dân tộc.
Lan tỏa, phát huy giá trị di sản
Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số từ lâu đã là nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển văn hóa của Việt Nam. Bước vào thời đại Cách mạng Công nghiệp 4.0, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số đặt ra yêu cầu phải đổi mới cách tiếp cận trong cách thức bảo tồn, phát huy di sản.
Chương trình số hóa di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 đặt mục tiêu xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về di sản văn hóa trên nền tảng công nghệ số thống nhất, phục vụ công tác lưu trữ, quản lý, nghiên cứu, bảo tồn, khai thác, quảng bá di sản; bảo đảm tích hợp được vào khung kiến trúc Chính phủ điện tử và Hệ tri thức Việt số hóa. Đồng thời, đẩy mạnh chuyển đổi số, thực hiện liên thông dữ liệu số quốc gia về di sản văn hóa, bảo đảm đáp ứng hiệu quả dịch vụ cho xã hội, cộng đồng mọi lúc, mọi nơi.

Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số đặt ra yêu cầu đổi mới cách tiếp cận trong cách thức bảo tồn, phát huy di sản. Nguồn:disanketnoi.vn
Khoản 3, Điều 7, Luật Di sản văn hóa năm 2024 cũng ghi rõ: ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước cho nghiên cứu, ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, số hóa di sản văn hóa, chuyển đổi số trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa...
Thực tế, việc ứng dụng công nghệ bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số đã được triển khai rộng khắp cả nước. Hầu hết địa phương đã thực hiện dự án sưu tầm, phục dựng và số hóa di sản văn hóa. Chẳng hạn, tại Lào Cai, nơi có hơn 30 nhóm, ngành dân tộc sinh sống, với di sản phong phú và đa dạng, đã triển khai dự án “Sưu tầm, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể dân tộc thiểu số”, trong đó tập trung số hóa tư liệu về nghệ nhân dân gian và xây dựng cơ sở dữ liệu di sản phi vật thể. Thông qua đó, nhiều giá trị di sản văn hóa đã được bảo tồn, phát huy.
Nhiều dự án số hóa cũng được các đơn vị, cá nhân triển khai với quy mô khác nhau. Đáng chú ý là Bộ sưu tập di sản số thuộc dự án Di sản kết nối do Hội đồng Anh Việt Nam triển khai từ năm 2018. Trong giai đoạn 2021 - 2022, bộ sưu tập đã hoàn thiện 17 tư liệu về di sản văn hóa, tập trung vào cộng đồng Bahnar, Êđê, Jrai ở Tây Nguyên, người Chăm ở Nam Trung Bộ, và các nghệ sĩ diễn xướng Nam Bộ. Năm 2023 - 2024, nhiều hội thảo, cuộc thi và chuỗi podcast được tổ chức nhằm gìn giữ và chia sẻ giá trị di sản văn hóa của các cộng đồng đa dạng, đặc biệt là những di sản ít được biết đến và có khả năng sớm bị lãng quên.

Bộ sưu tập di sản số thuộc dự án Di sản Kết nối do Hội đồng Anh Việt Nam triển khai. Ảnh: disanketnoi.vn
Chuyển từ số hóa tĩnh sang quản trị chủ động
Ngân hàng dữ liệu di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch xây dựng và phát triển từ năm 1997 đến nay. GS. TS. Nguyễn Chí Bền, nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam cho rằng, nhiều việc cần được triển khai để tiếp tục phát huy giá trị của khối dữ liệu quý giá này. Theo đó, vấn đề đặt ra với bảo vệ, phát huy di sản văn hóa phi vật thể các dân tộc thiểu số là rất cần có được cơ sở dữ liệu lớn (big data).
Thực tế, phần lớn hoạt động chuyển đổi số hiện nay mới dừng ở mức số hóa tĩnh - tức là lưu trữ dữ liệu dưới dạng hình ảnh, âm thanh, video - mà chưa tạo ra được không gian số tương tác và có khả năng đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội. Công việc đang được triển khai dàn trải, thiếu tính hệ thống và liên thông.
Điển hình là trường hợp Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO ghi danh (năm 2005), nhưng các sản phẩm số chỉ dừng lại ở dữ liệu tĩnh, thiếu khả năng kết nối, tương tác và kiến tạo giá trị với chính cộng đồng sở hữu văn hóa. Điều này làm giảm đáng kể khả năng phát huy giá trị di sản.
ThS. Trần Đăng Khoa, Bảo tàng Vĩnh Long cho rằng, bảo tồn văn hóa các dân tộc trong thời đại số không chỉ dừng lại ở lưu trữ tĩnh (chỉ số hóa để cất giữ), mà cần chuyển sang quản trị chủ động - tức là cộng đồng phải có quyền kiểm soát và hưởng lợi từ dữ liệu văn hóa của chính mình. Một số giải pháp được đề xuất như: ban hành khung tiêu chuẩn dữ liệu văn hóa bản địa; thành lập quỹ hỗ trợ sáng tạo văn hóa số hoạt động theo cơ chế đối tác công - tư chuyên biệt cho lĩnh vực công nghệ văn hóa; thử nghiệm chính sách sandbox về tài sản số văn hóa (NFTs) dựa trên di sản phi vật thể của các dân tộc thiểu số…
Bằng việc chuyển từ dữ liệu tĩnh sang cơ sở dữ liệu lớn tương tác, và từ lưu trữ sang quản trị chủ động, kỳ vọng “sức mạnh mềm” văn hóa sẽ được kích hoạt, biến kho tàng di sản các dân tộc trở thành động lực phát triển bền vững.
(Vụ Pháp chế - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp thực hiện)































