Săn lộc dưới rừng Mã Đà
Dưới tán rừng rộng mênh mông ở Mà Đà, trên con đường đất đỏ, khi mưa tới cũng là lúc hàng chục người dân ở các xã Trị An, Phú Lý… (tỉnh Đồng Nai) bước vào mùa săn lộc rừng cùng các sản vật vô cùng giá trị như nấm tràm, nấm mối, nấm mèo, măng rừng hay tôm cá dưới dòng sông Bé, ven hồ Trị An. Đây là món quà thiên nhiên của rừng ban tặng cho người dân địa phương bao đời qua, thường xuất hiện nhiều ở tháng mùa mưa.

Người dân câu tôm càng trên sông Bé.
Dưới tán rừng rộng mênh mông ở Mà Đà, trên con đường đất đỏ, khi mưa tới cũng là lúc hàng chục người dân ở các xã Trị An, Phú Lý… (tỉnh Đồng Nai) bước vào mùa săn lộc rừng cùng các sản vật vô cùng giá trị như nấm tràm, nấm mối, nấm mèo, măng rừng hay tôm cá dưới dòng sông Bé, ven hồ Trị An. Đây là món quà thiên nhiên của rừng ban tặng cho người dân địa phương bao đời qua, thường xuất hiện nhiều ở tháng mùa mưa.
Kiếm tiền triệu nhờ nấm
Một trong những sản vật quen thuộc nhất mà người dân ở Mã Đà tìm được vào mùa mưa là nấm mối. Ở đây có rất nhiều loại nấm, nhưng phổ biến là nấm mối, nấm tràm và nấm mèo. Trong đó giá trị cao nhất là nấm mối, lên tới gần nửa triệu đồng mỗi ký (loại búp chưa nở).
Anh Đinh Văn Thông (43 tuổi) - một cư dân ở xã Trị An cho biết, từ hơn một tháng nay, anh thường xuyên vào rừng ở khu vực ven sông Mã Đà để tìm nấm mối. “Nấm mối chỉ xuất hiện vào mùa mưa, ở vùng đất ven sông, suối mà thôi. Nấm mối xưa giờ đều bán giá rất cao nhưng cũng không dễ để tìm được chúng. Do đặc thù nên nấm xuất hiện rải rác, không cố định ở nơi nào. Đặc biệt nấm mối thường trồi lên lúc đêm khiến cho việc săn tìm vất vả hơn. Ban ngày, khi gặp ánh nắng nấm sẽ bung nở và giá trị dinh dưỡng sẽ bị giảm đi rất nhiều, khiến chúng cũng có giá bán kém hơn. Do đó, anh em chúng tôi phải nhổ được nấm ở khoảng thời gian từ đêm tới sáng sớm” - anh Thông kể.
Cũng theo anh Thông, mùa mưa là thời gian nấm mối có nhiều nhất. Những buổi tối trời mưa, đêm hôm đó ở những khu đất dưới tán cây, rất nhiều nấm mối sẽ nhô lên. Những cây nấm mối khá nhỏ, màu nâu sẫm đặc trưng và khi nhổ lên, phần thân nằm trong đất có màu bạc, được nhiều người ưa thích. “Vì đi săn tìm vào ban đêm nên dụng cụ không thể thiếu của người tìm nấm là đèn chiếu sáng. Khi gặp ổ nấm, chúng tôi cẩn thận ngồi xuống rồi sử dụng chiếc dao nhỏ để kéo nấm lên. Bây giờ nhiều người đi tìm nấm lắm nên thu nhập cũng bấp bênh. Có đêm may mắn được 4 - 5 ký, có đêm thì chỉ được 1 - 2 ký mà thôi. Nấm ở đây là nấm tự nhiên chứ không phải nấm nuôi nên có bao nhiêu, thương lái bên Vĩnh An cũng mua hết bấy nhiêu. Giá nấm cũng dao động lắm, loại búp ngon thì từ 400 đến 500 nghìn đồng, loại xòe bông thì chỉ gần 200 nghìn đồng thôi. Vì thế thu nhập có khi chỉ vài trăm nghìn đồng, có khi được hơn 1 triệu cũng không biết chừng” - anh Thông nói.
Theo quan sát của chúng tôi, những người thợ săn nấm mối như anh Thông trang bị khá đơn giản. Ngoài chiếc đèn chiếu sáng thì họ sử dụng xe gắn máy để di chuyển trong những con đường rừng mùa mưa. Do công việc chủ yếu là ban đêm rạng sáng nên những người tìm nấm thường đi theo nhóm 2 - 3 người để tiết kiệm chí phí xăng xe cũng như hỗ trợ nhau khi cần thiết.
Với vị trí địa lý nằm giáp ranh TPHCM và Đồng Nai (trước là địa bàn tỉnh Bình Dương, Bình Phước và Đồng Nai), rừng Mã Đà là khu vực rộng mênh mông gồm vùng lõi rừng nguyên sinh, hệ thống rừng trồng và nhiều cộng đồng cư dân sinh sống lâu đời. Ngoài sông ngòi len lỏi trong rừng thì hồ Trị An cũng tạo lên hệ sinh thái đa dạng, độc đáo của khu vực rừng Mã Đà, biến nơi đây thành địa điểm lý tưởng của nhiều khách du lịch. Việc này, cùng với đường bộ trải nhựa, bê tông kết nối cũng gián tiếp giúp những cư dân ở đây có thêm sinh kế và những sản vật của rừng được mua bán trao đổi nhiều hơn, thuận lợi hơn.

Những thợ săn nấm mối ở Mã Đà.
Mưu sinh cùng dòng sông Bé
Nếu săn tìm nấm mối chỉ mưu sinh theo thời gian ít tháng mùa mưa thì những người làm nghề câu trên sông Bé, sông Mã Đà, ven hồ Trị An… lại duy trì công việc quanh năm. Ở đó, tùy từng khúc sông, từng mùa mà họ có thể tìm kiếm các sinh kế khác nhau, với nguồn lợi thủy sản phong phú nơi đây.
Để tạo thêm sinh kế cho người dân và sự đa dạng sinh học, hàng năm chính quyền địa phương thường xuyên tổ chức thả hàng trăm nghìn con cá giống các loại xuống hồ. Vì thế, hồ Trị An là một trong những nơi có nguồn thủy sản rất phong phú, đa dạng và dồi dào.
Anh Trần Văn Hương (39 tuổi, ở xã Trị An) - một người nhiều năm gắn bó với nghề câu ở sông Bé cho biết, nơi đây có nhiều loại thủy sản được ưa chuộng. Trong đó, nổi bật nhất là cá lăng tự nhiên và tôm càng xanh.
Theo anh Hương, các loại tôm cá ở sông Bé đều có chất lượng hơn những nơi khác, do đặc thù tự nhiên của dòng sông này là chảy qua vùng đồi núi uốn lượn nên nước chảy xiết. “Nhiều năm nay tôi chỉ câu ở khu vực sông Bé, loanh quanh từ mạn sông Mã Đà, suối Đá Dựng rồi tới đoạn hạ lưu của hồ Trị An mà thôi. Giờ đang mùa mưa nên tôi thường đi câu tôm càng. Tôm càng sông Bé loại lớn vẫn bán giá hơn 200 nghìn đồng một ký lô, trong khi tôm càng xanh nuôi ở lòng hồ chỉ bán giá chưa bằng một nửa. Bởi tôm càng sông thịt chắc, vỏ mỏng và đầu nhỏ hơn” - anh Hương nói và cho biết thêm, kinh nghiệm để câu tôm càng xanh là chọn thời gian, địa điểm và mồi câu. Tôm càng chỉ ăn mồi vào sáng sớm và chiều tối mà thôi. Khu vực câu cũng thường là nơi có khoảng nước lặng (sau một đoạn sông chảy xiết) và mồi câu phải là động vật, thường là tép nhỏ. Tôm càng ăn mồi ở nước giữa nhưng dây câu phải chìm tận đáy, nên phải gắn chì nặng vào.
“Khúc sông này, đoạn ngã ba Hiếu Liêm là nhiều tôm càng nhất. Đây là nơi sông Bé hợp lưu với sông Đồng Nai nên nước rộng, cũng êm hơn phía trên nên tôm càng nhiều lắm. Thế nhưng cũng có nhiều người đổ về đây thả câu. Cuối tuần người dân ở trên TPHCM đi ô tô về cắm trại, thả câu nhiều lắm. Nhưng họ chỉ câu chơi, mình câu kiếm cơm thì chạy ghe tìm chỗ tốt hơn” - anh Hương chia sẻ.

Đặc sản tôm càng ở sông Bé.
Anh Nguyễn Đức Mạnh - ở xã Thường Tân (TPHCM) cũng đang thả câu tôm càng. Anh Mạnh cho biết, mùa mưa như hiện nay, câu tôm càng rất dễ ăn, ngày nào cũng được vài ký. “Sông ở đây nước chảy nên không thể thả lưới, đặt lợp như ở ven hồ Trị An mà chỉ thả câu thôi. Câu tôm nếu có kinh nghiệm cũng rất dễ. Mình đi từ sáng sớm cho tới nửa trưa là về nghỉ ăn uống, chiều lại đi tiếp. Những ngày mưa lâm thâm, tôm ăn nhiều lắm. Đợt này tôm chưa to, cỡ hơn chục con một ký thôi. Gần tết tôm mới to, có khi 6 - 7 con là đủ ký rồi. Tôm ở đây là đặc sản, có bao nhiêu, thương lái họ mua hết bấy nhiêu để đem về Thủ Dầu Một, Tân Uyên” - anh Mạnh cho biết thêm. Ngoài ra, anh Mạnh cũng tiết lộ thêm rằng, không chỉ tôm càng, nhiều loại cá như cá lăng, cá chẽm, cá mè… cũng có nhiều ở sông Bé nên nhóm của anh cũng thường xuyên câu được. Trong đó, nếu may mắn có thể câu được cả những con cá nặng hàng chục ký lô, giá bán vài triệu cho tới cả chục triệu đồng. Đây là đặc sản và cũng là điều may mắn mà những thợ câu ở sông Bé hay hồ Trị An thi thoảng vẫn bắt gặp.
Mùa mưa nước sông Bé đục ngầu màu đỏ quạnh đặc trưng. Nước sông chảy không quá xiết nhưng cũng không êm ả như những dòng sông khác bởi một số đập phía thượng nguồn như Phước Hòa, Sok Phú Miêng... Đứng ở ven bờ nhìn lên, dòng sông chỉ uốn một quãng ngắn rồi mất hút giữa màu xanh của núi rừng Mã Đà. Tuy nhiên, đây là một trong những dòng sông khá đặc biệt, dài gần 400 cây số nhưng chỉ chảy quanh co, là ranh giới tự nhiên của các địa phương là Đồng Nai, Bình Phước, Bình Dương (cũ), nay là TPHCM và Đồng Nai.
Theo những ngư dân ở đây, kể từ khi xây dựng các đập thủy điện, thủy lợi thì nước sông Bé chảy êm hơn, giúp cho cuộc sống của nhiều ngư dân ven bờ thuận lợi hơn, kể cả vào mùa mưa. Những con đập này như chiếc van kìm chế sự hung dữ của dòng chảy sông Bé mùa mưa và cũng làm tăng mực nước mùa khô.