Rừng không còn, con suối mồ côi...

'Một sớm em về ru giấc ngủ/ Bông trời bay trắng cả rừng cây/ Gió thổi đồi thu qua đồi đông/ Mưa hạ ly hương nước ngược dòng' (Phạm Công Thiện).

Một chiếc lá rớt xuống dòng suối, là lững thững trôi. Miệt mài, thanh thản, an nhiên. Một bó củi khô, hay bè gỗ hễ rơi xuống thì cũng thế. Đột nhiên trở về thăm rừng quen núi thuộc. Ồ, con suối thân thiết của tôi đâu rồi!

Dòng nước đầu non

Cái con suối Dà K’lơ - theo tiếng sắc dân Maạ bản địa, chảy từ dãy núi cao nhất của phần sơn cước tít mù tận cùng của xứ Bình Thuận hòa chung với nguyên sinh đại ngàn xứ Đồng Nai và xứ Lâm Đồng. Khi đã gọi là “xứ” thì vượt qua tính hành chánh, bởi tính hành chánh chỉ là một phần thiết thực của đời sống nhân thế. Người Kinh chúng tôi thì gọi trực diện theo tính chất bề mặt thay vì độ tha thiết và văn hóa lâu đời như người Maạ bản địa kia nên tên nó thành... suối Cát, vì nó có con nước luôn trong vắt và phơi ra cát trắng dưới lòng.

Ở địa phận xứ Bình Thuận có con suối chảy từ trên cao, tận đỉnh núi đầy đá granite, tạo nên một thác nước với ba tầng đổ xuống bên dưới thấp hơn để hợp với con suối Heo nhỏ hơn khởi từ hướng nhánh khác tạo thành suối Cát. Nó mang dòng nước đẫm lạnh, mà mùa khô ai đi rừng khi mệt rã mồ hôi ngâm mình vô nó là mát mê, tê thắm người. Nước mạch đúng nghĩa thượng nguồn mà. Nó là một trong những “mạch máu” thượng nguồn của con sông Dà Uôi mà từ dòng Dà Uôi này tụ hội thành (rồi người Kinh gọi) dòng sông Đạ Hoai, hoặc Đa Quay, cứ chảy thế cho tới lúc hòa vào dòng to hơn là sông Đồng Nai vang tiếng kia.

Trang trại, vườn rẫy thay thế sinh cảnh rừng nguyên sinh nơi ven con suối lớn thượng nguồn, Dà R’bung.

Trang trại, vườn rẫy thay thế sinh cảnh rừng nguyên sinh nơi ven con suối lớn thượng nguồn, Dà R’bung.

Dòng nước lạnh rừng núi thiên tạo là bản hòa ca của địa chất, cây cỏ, muôn loài; tuôn trào cộng sinh mênh mông của vũ trụ vô tận phải đến ba trăm triệu năm trước rồi nên không cần nghĩ đến đường kẻ hành chánh làm gì nữa. Tên gọi có thể khác nhưng núi non thì không thể di dời. Nó định vị, đứng đấy, trải dài ra đấy, giữa trời đất, nhưng chỉ có điều là không còn cây rừng, thú vật.

Thiên nhiên là tự nhiên, là tự tại, từ thuở loài người chưa hình thành, là không có những đường biên hành chánh. Nhưng dòng Dà K’lơ giờ đây thì chảy qua trang trại, rẫy, vườn người đời. Qua mỗi trang trại, rẫy thì đoạn suối ấy “thuộc” về một người. Chủ rẫy, trang trại nào cũng làm những dạng hàng rào, cổng, cửa có khóa để cách ngăn, xác lập phần suối quý báu “thuộc về mình”. Nó khác trước là mọi con suối đều không bao giờ thuộc về riêng kẻ nào.

Giới hạn tôn trọng thiên nhiên chung đã không còn. Người ta tước chức năng của suối, rồi sở hữu, cát cứ, cưỡng ép cho riêng mình. Biết rằng thế thời thì vạn vật đều phải chấp nhận thôi. Nhưng lúc này sao cứ thấy đau đớn cho con suối quá. Mọi loài cây, con vật rừng hoang đã biến mất khỏi xứ, nhưng nó thì vẫn còn chảy kìa. Chảy nhờ nước mưa từ trời cùng những mạch khe thoi thóp cuối cùng, không từ rễ cây rừng nhiệt đới thường xanh.

Rừng không còn, con suối mồ côi.

Thì nó đành chảy qua những vườn người, rẫy người, xóm di cư, nhà người.

Nó chảy vô hồn.

Chảy nhưng không tự do.

Chảy nhưng không thanh bình.

Chảy, vì chất lỏng mà phải chảy chứ không phải cuộc đời của một con suối, nghĩa phận của thế giới tự nhiên.

“Đường be”

Trong trường học, kể cả tự điển cổ ngữ hay quốc ngữ, hoặc văn bản công chánh không có từ “đường be”. Nhưng cuộc sống thật thì có, nhất là chốn nhân gian sát rạt thế tục ở miền Thượng này. Ở miền Thượng, bốn mươi lăm năm qua, ai sống mà chẳng biết đến “đường be”.

Giữa mênh mông rừng mưa nhiệt đới thường xanh nơi này luôn có vô vàn con đường và kiểu đường trong đó. Loài người luôn biết tìm đường để đi và bất cứ sinh cảnh, không gian nào thì đi mãi cũng “thành đường”. Rừng rậm, thường đường đi là dưới bóng cây, chen trong lá, nên trên nền đất đó mùa mưa tự dưng lối đi bít dần, khô tự dưng lại nới ra theo độ tàn của cỏ dại. Chỉ có “đường be” là thứ đường được... “mở ra” thay vì là lối mòn từ đôi chân trần của con người. Nó được mở ra, mở dần, vừa công khai vừa lén lút, có khi sử dụng cả phương tiện cơ giới. Cũng là đường đất thôi, nhưng nó luôn to nhất. Nó rất sinh động và dũng mãnh, uy lực; là động mạch ở đại ngàn đó, là “xương sống” để phá rừng. Chính nó đẻ ra vô vàn đường “xương cá”, bám theo nó để ra được đường cái quan, tỉnh lộ, quốc lộ, mà từ đó gỗ ván có cơ hội rời rừng mà “lên xe” - đi tiêu thụ.

Thế nên, một con đường xuyên qua những dải rừng chập chùng, vách núi, thung sâu “phục vụ” cho các loại phá sơn lâm cưa - hạ - xẻ - vận chuyển gỗ trong rừng có tên là “đường be 54”. Con đường đất gập ghềnh “tắm máu gỗ” này chạy từ Hà Lâm ở lâm phần bên dưới đèo Bảo Lộc men theo xuống dải rừng trộn lẫn giáp ranh giữa xứ Bình Thuận với xứ Lâm Đồng, vượt qua vô số khe, suối, đồi, đỉnh, vách, vực, trong đó có hai suối chính lớn là Dà R’Bung và Dà K’Lơ kia. Nhưng “đường be 54” này không chỉ tiếp tay cho oanh tạc cây và gỗ ở hướng trên đấy, nó chạy xuống thêm nữa để gặp “đường be Lâm Đồng”, tạo thành “vòng cung đường be” ở vị trí giao nhau của con suối Heo với con suối có nguồn nước đổ từ thác ba tầng trên núi cao kia xuống.

“Đường be” là đường để phá rừng. Kẻ chủ trương dẹp bỏ rừng có thể gọi nó là “ân nhân”, bác ái, hạ tầng khai hoang. Kẻ nâng niu thứ hạnh phúc không nghiêng lệch cho loài nào mà chia đều cho hết thảy chúng sinh, bảo vệ thế giới chung sống thuận hòa bền vững có thể gọi nó là “tội đồ”, một thực thể xấu xa, một vết nhơ trong lịch sử đại ngàn.

Chốn sơn lâm trầm buồn

Thuở đó rừng núi, thiên nhiên là của Yàng. Cây cối, sông suối đều nhận thức là “có Thần” (Yàng) nên hết thảy người bản địa khiêm cung và từ tốn nương theo chung dùng, mà không ai được phép có thứ “sổ” nào, hay hóa của riêng, chiếm dụng vĩnh viễn, cát cứ.

Rồi thuở sau đó, từ thập niên 70, 80, 90 thế kỷ trước, núi rừng được sự góp mặt của lưu dân phương xa đến, sự góp càng về sau càng sục sôi, đông đảo hơn. Thuở đó rừng đầy cây nguyên sinh, cảnh quan thơ mộng, nhưng lưu dân thì không thơ mộng, họ tảo tần, lăn lộn đại ngàn. Họ thuần túy chỉ lao vào mưu sinh thôi, vì sự sống sót, tồn tại, rồi tự nhiên mọi thứ thành phá bỉnh, mà không cố ý, dã tâm. Những thân phận nổi trôi hoang của thời đại, khốn khó, đói nghèo, hoặc theo ý chí của thế cuộc.

Giữa không gian núi non bao la, điểm có đông người nhất là thị trấn Ma Da Guôi (tên gọi trước tháng 7.2025) - thuộc xứ Đạ Hoai, ở tỉnh Lâm Đồng - tập trung lưu dân từ nhiều tỉnh thành phía Bắc, miền Trung. Sinh kế cơ bản của tất thảy là dựa vào rừng để sống, nếu không rặt thế thì cũng là dựa vào người sống bằng nghề rừng. Mọi xoay xở áo cơm đều có bóng dáng của rừng. Vườn, rẫy “lẩy” ra từ rừng để trồng trọt. Cuộc sống chơn chất lặng lẽ từ cây bắp, đậu, khoai, dâu tằm, điều bỗng tới lúc trộn vào với những nghề dựa vào rừng nguyên sinh là hạ cây, xẻ gỗ, hoặc khai thác lâm sản phụ: mum, lồ ô, song mây, măng le, nấm, lá bép... Thị trấn núi này một ngày bỗng tự nhiên biến thành một trung tâm của ngành đan lát, sản xuất, đóng đồ mỹ nghệ song mây xuất khẩu, và giỏ tre, cần xé... của quốc gia.

Những thợ rừng đi xẻ gỗ và lăn lộn tha về thời đó.

Những thợ rừng đi xẻ gỗ và lăn lộn tha về thời đó.

Nơi đây, sự sống của hàng quán phụ thuộc vào những đội quân “tựa vào rừng” đó. Quán cóc ăn uống bia rượu vào mỗi tối chính là cái “nhiệt kế” đo nguồn thu ổn hay không ổn của cư dân trong xứ. Cả một thế giới sống bám vào rừng, ký gửi cho rừng. Cái xứ mà thanh niên đa phần đều biết nghề tiều phu, trèo núi, thợ rừng, xẻ gỗ. Ngoại trừ công chức, còn lại hầu như đàn ông hay phụ nữ ai cũng biết chặt mum, lồ ô, kéo cây lên đồi xuống dốc, biết thồ biết chở, và biết tung tay đan lát, kết giỏ, vót đũa, uốn tạo đồ mây tre mỹ nghệ. Bên trong của rừng là những gì sục sôi âm ỉ, còn bên ngoài phố trấn, xóm thôn, sân nhà... là rạng rỡ nghề đan lát mây tre.

Hàng loạt cơ sở, doanh nghiệp, công ty sản xuất vật dụng và mỹ nghệ bằng mây tre ra đời. Vô số những cơ sở đan sọt, cần xé để cung cấp cho nhiều trung tâm kinh tế lớn dưới xuôi đựng và vận chuyển bán buôn các loại hàng củ quả, thủy sản, rau trái. Gia đình nào nếu không chuyên nghiệp thì cũng có người làm thêm bằng nghề đan gia công các sản phẩm từ mây, dây, tre, lồ ô. Mọi xóm làng người di cư đều hiển hiện ra hình ảnh này, cuộc sống đó.

Nhưng cũng chỉ có nơi đây chính quyền đương cục mới phải từng lập những chốt kiểm lâm cơ động trong rừng để ngăn chặn phá rừng (và thế là có hoạt động “mãi lộ” ngay trong rừng - giữa thợ rừng với kiểm lâm hư!). Lực lượng kiểm lâm đặc biệt ấy hùng hậu nhưng những lưu dân khốn cùng ấy cũng hùng hậu. Rằng chỉ thấy ở nơi này, bá tánh, hoặc khách vãng lai mới có cái “thú” giải trí là cứ tối về bắc ghế ra trước nhà, hoặc ngồi ở hàng quán vỉa hè bên quốc lộ 20 để xem người ta “sinh hoạt” vận chuyển gỗ lậu, và kiểm lâm với thợ rừng, lâm tặc đấu trí, rượt đuổi, mưu sinh, chức trách, tật nguyền, sống sót.

Ôi, xót xa - trái ngang - oái oăm - diễm tình - dễ thương - và tàn khốc!

Chốn sơn lâm trầm buồn bỏng rát suốt gần nửa thế kỷ qua.

*

Đại ngàn đã vỡ, à, không phải vỡ mà là tiêu, tan. Giữa một dải núi non mênh mông, nhìn xa cứ nghĩ mọi thứ màu xanh sẫm la đà xa xa kia là “rừng”, nhưng thực ra nó là rẫy, vườn, và người đấy. Những dải núi lân cận vùng này đâu đó chỏm đất nào còn vương vãi chút “rừng” thì cũng đầy dấu chân người, chằng chịt những đường mòn lớn nhỏ, rỗng ruột, trộn độn vào đấy là rẫy, trang trại, dự án, hoặc “kế hoạch”.

Giờ thì mình mẩy rừng rậm kia đã trở thành những “dải núi” cây nông sản, điều, và gần đây đã hóa kiếp tiếp thành những... trùng điệp sầu riêng bằng các chủng giống do Thái Lan, Malaysia lai tạo ra.

Từng mét đất núi đang cựa quậy

Mới hôm nào bao loài cùng chung sống. Nay cũng vị trí đó, song chỉ có một loài được sống. Những dải núi non từng là đại ngàn tây Bình Thuận, bắc Đồng Nai, nam Lâm Đồng này cũng đã vắng bóng đám thợ rừng, lâm tặc, cùng sự tác oai tác quái của hệ thống bọn buôn gỗ lậu rộng lớn liên tỉnh thành.

Từ độ bỗng sạch rừng, ngay thổ dân Maạ kia dần cũng không còn nói về lâm sản phụ nữa, những phong lan, nấm dại, lá bép, đọt mây, cá suối, cua núi, heo rừng, nai thỏ hoang... ấy. Một thời trên núi, cây rừng quý hơn đất - rất nhiều bỏ hoang sau khi “xơi tái” gỗ. Thời gỗ là thứ bán được, còn đất thì không. Luật pháp và tầm nhìn cho trần gian luôn đi sau hiện thực cuộc sống xa lắc và chẳng gì có giá trị cao xa, an lành, vững chãi. Thế mà nhiều lưu dân đã biết khai phá, tích tụ, mua gom, đợi “thời” đến.

“Chân dung” cuộc song đấu sinh tử quyết liệt của một ngọn đồi với những hố đào trồng sầu riêng non giống Thái Lan và một mảnh rừng nguyên sinh còn “thấy” được.

“Chân dung” cuộc song đấu sinh tử quyết liệt của một ngọn đồi với những hố đào trồng sầu riêng non giống Thái Lan và một mảnh rừng nguyên sinh còn “thấy” được.

Thời của “đất”. Giờ người xa đến sống nơi dải núi non ấy, họ nói về “đất”, chứ không nói về gỗ nữa.

Đất đai là tư liệu sản xuất, là chất liệu để đồng loại tôi sinh tồn, tạo cơ nghiệp hoặc ít nhất là sống sót mà. Giữa một rừng hoang thâm u, giờ mét đất nào cũng cựa quậy, sinh ra của cải, bạc tiền, thành hàng hóa. Tài nguyên môi trường thành tài nguyên đất đai. Đất đai nơi từng là rừng rậm giờ cũng là “hàng hóa”, “bất động sản”. Loài tôi cần thâu tóm thiên nhiên để biến mọi thứ trong tự nhiên thành tư liệu sản xuất vô hạn và vô tận, để ích lợi cho riêng một loài (trước mắt là cho những chủ đất). Ở dương gian này mọi điều sinh động đều khốc liệt, hay ho và phi lý như thế.

“Đất” chỗ nào mà không thơm!

*

Một chiếc lá rớt xuống dòng suối, là lững thững trôi. Miệt mài, thanh thản, lành mạnh, an nhiên. Một bó củi khô, hay bè gỗ hễ rơi xuống thì cũng thế.

Nơi dải núi non này, sinh khối tự nhiên đã viễn xứ, nhưng vẫn “còn trời, còn đất, còn mây, nước” trong trái sầu riêng Monthong (Thái Lan) và Musang King (Malaysia) để người ăn và người kiếm tiền.

Cơ khí (đừng chỉ nghĩ đến chiếc máy cưa), kỹ thuật rớt xuống chỗ nào thì chỗ đó bấn loạn, nhiễu nhương trong chiếc áo “phát triển”. Rồi thời kỹ thuật số, AI, chủ nghĩa sùng bái vật chất, mọi thứ cao quý còn lại vất vưởng cuối cùng ở trần gian này sẽ còn “kết thúc” nhanh hơn thế nữa, mà chẳng riêng một xứ nào trên khắp địa cầu.

Cho ta lạy linh sắc đất đai cùng những loài đã tắt tiếng.

Và cúi đầu uống mấy ngụm nước của con suối mồ côi rừng, Dà K’lơ.

Như quá vãng từng thiết tha uống bao giọt thanh bình...

Bài và ảnh: Nguyễn Hàng Tình

Nguồn Người Đô Thị: https://nguoidothi.net.vn/rung-khong-con-con-suoi-mo-coi-49643.html
Zalo