Rene Joyeuse - Người hùng thầm lặng của nước Mỹ

Rene Joyeuse (17/1/1920 - 12/6/2012) có tên khai sinh là Rene Veuve, sinh ra trong một gia đình có cha mẹ (người cha gốc Pháp làm thợ mộc, còn mẹ gốc Ý làm hầu phòng) là những người nghèo khổ tại Zurich (Thụy Sỹ). Joyeuse lớn lên và học hành ở Pháp và Thụy Sỹ, ông học triết học tại các trường đại học danh tiếng như Besancon và Montpellier, tốt nghiệp với tấm bằng danh dự vào năm 1940.

Joyeuse tức Veuve hết sức nổi tiếng trong hoạt động tình báo của quân Đồng Minh tại lãnh thổ Pháp trong thời kỳ chiếm đóng của Đức Quốc Xã (ĐQX) trong Thế chiến II.

Hoạt động tại Pháp

Năm 1940, sau khi Đức xâm lược Pháp, Rene Veuve gia nhập Các lực lượng nước Pháp tự do (FFF, là một tổ chức quân sự trong thời Thế chiến II có bao gồm người dân và binh lính Pháp khước từ việc chấp nhận đầu hàng ĐQX của Pháp trong năm 1940 và tiếp tục chiến đấu sát cánh với quân Đồng Minh. FFF được lãnh đạo bởi tướng Charles de Gaulle, nhằm mục tiêu giải phóng nước Pháp từ sự chiếm đóng của người Đức cũng như chế độ Vichy với cấp bậc Đại úy. Veuve làm việc cho Cục Tình báo chiến lược (OSS) và tổ chức Kháng chiến ở miền Bắc nước Pháp, kiêm huấn luyện viên dù tại Anh.

Rene Veuve (tức Rene Joyeuse), điệp viên, bác sĩ, người hùng của nước Mỹ.

Rene Veuve (tức Rene Joyeuse), điệp viên, bác sĩ, người hùng của nước Mỹ.

Nên biết rằng OSS là cơ quan tình báo đầu tiên của Hoa Kỳ được hình thành trong Thế chiến II. OSS ra đời như một cơ quan của Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân (JCS) có vai trò điều phối các hoạt động gián điệp sau phòng tuyến địch, phục vụ cho mọi nhánh của Các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ (USAF). OSS được giải thể sau khi kết thúc chiến tranh. Các nhiệm vụ tình báo của OSS đã nhanh chóng được tiếp tục và chuyển giao cho những đơn vị kế nhiệm như Đơn vị Dịch vụ chiến lược (SSU), Cục Tình báo và nghiên cứu (INR) trực thuộc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, và Tổ chức Tình báo trung ương (CIG) - tiền thân trung gian của Cục Tình báo trung ương (CIA) hoạt động độc lập. Ngày 14/12/2016, OSS được vinh danh chung với Huy chương vàng quốc hội.

Trở lại Thế chiến II, để tiện cho hoạt động tình báo, OSS đã đặt bí danh cho Veuve là Joyeuse - “Vui vẻ” - dựa theo huyền tích thanh gươm của Charlemagne. Vào tháng 4/1944, cùng với 120 điệp viên khác trong Chiến dịch Sussex, Joyeuse được giao nhiệm vụ thu thập tình báo về các cơ sở quân sự, kho tiếp tế và các đợt hành quân của địch (ĐQX) ở miền Bắc nước Pháp nhằm dọn đường cho cuộc đổ bộ sắp tới của quân Đồng Minh.

Thực hiện việc nhảy dù xuống đất Pháp và giả trang làm một nhân viên bưu điện, Joyeuse (Veuve) đã thu thập và truyền phát thông tin về những cơ sở hạ tầng trọng yếu của địch chẳng hạn như sân bay Le Bourget, một nhà máy lọc dầu cũng một nhà máy chế tạo tên lửa ngầm. Hơn 60 tin nhắn đã được truyền đi trong đó bao quát các đợt hành binh của địch quân tại các sân bay cùng việc nhận dạng lính địch, các nhà máy sản xuất tên lửa V-I, các nhà máy ngầm cùng một số kho xăng quan trọng. Dù chưa có sự chuẩn bị nào cho việc truyền tin tình báo bằng hình thức chuyển phát nhanh song Joyeuse đã thể hiện một sáng kiến tuyệt vời của mình khi chuyển đến London 2 túi chứa đầy ắp những thông tin hết sức giá trị về một nhà máy chế tạo thuốc súng hải quân và một nhà máy lọc dầu, cả 2 địa điểm này sau đó đã bị máy bay của quân Đồng minh đánh bom dữ dội.

Nhằm tránh bị địch phát hiện bằng sóng vô tuyến, Joyeuse đã ẩn náu ngay gần một máy truyền tin của một đơn vị quân đội Đức. Sau cuộc xâm lược Pháp của quân Đồng Minh, Joyeuse chuyển hoạt động tình báo của mình sâu hơn vào đất liền, có lần vừa hay thoát khỏi một cuộc đột kích của lực lượng SS với vết thương găm vào bàn chân, trong lúc 2 cận vệ của ông (Louis Barrault và Pierre Gastaud) bị bắt giữ và hành hình vào ngày 18/8/1944 tại Aulnay Sous Bois. Với việc hành binh thần tốc của quân Đồng Minh, cuối cùng Joyeuse cũng đến Đức và trở thành một trong những viên chức Đồng minh đầu tiên đặt chân đến trại tập trung Bergen-Belsen (ngày nay thuộc Hạ Saxony ở miền Bắc nước Đức). Buổi ban đầu, trại này dùng làm nơi giam các tù binh chiến tranh. Năm 1943, một số phần của trại này trở thành trại tập trung. Buổi ban đầu, Belsen dùng làm nơi “trao đổi” nơi các con tin gốc Do Thái với mục đích đổi lấy các tù binh Đức bị giam giữ ở nước ngoài.

Sau này, Belsen mở rộng để giam người Do Thái từ các trại tập trung khác chuyển đến. Sau năm 1945, cái tên Bergen-Belsen được áp dụng cho trại tị nạn được lập nên gần đó, song cái tên này vẫn khiến người ta nhớ đến trại tập trung. Từ năm 1941 đến 1945 đã có khoảng 2 vạn tù binh Liên Xô và gần 5 vạn tù nhân khác chết tại đây. Do tình trạng quá tải, thức ăn khan hiếm và điều kiện vệ sinh nghèo nàn đã làm bùng dịch sốt phát ban, lao, sốt thương hàn và kiết lỵ dẫn đến cái chết của hơn 3,5 vạn tù nhân chỉ trong vài tháng đầu tiên của năm 1945 - một thời gian ngắn trước và sau giải phóng.

Trại Bergen-Belsen được giải phóng vào ngày 15/4/1945 bởi Sư đoàn thiết giáp số 11 của Anh. Các binh sĩ tìm thấy xấp xỉ 6 vạn tù nhân bên trong với hầu hết trong số họ đang đói lả và bệnh nặng và khoảng 1,3 vạn xác chết nằm quanh trại trong tình trạng không được chôn cất. Một đài tưởng niệm cùng khu vực triển lãm sau đó đã được dựng lên tại đây.

Rene Joyeuse trong bức ảnh chụp tại nhà riêng ở Saranac Lake (New York) vào năm 2012.

Rene Joyeuse trong bức ảnh chụp tại nhà riêng ở Saranac Lake (New York) vào năm 2012.

Sau khi Thế chiến II chấm dứt, Veuve lấy bí danh “Joyeuse” làm họ của mình. Ông phục vụ 5 năm trong vai trò viên chức tình báo Pháp trong sự kiện Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, thời kỳ đó ông thường hỗ trợ cho các bác sĩ phẫu thuật tiến hành mổ cho các thương binh. Joyeuse ước tính rằng tỷ lệ tử vong rất khủng khiếp tại chiến trường Đông Dương, trung bình cứ 12 thương binh thì chỉ có 1 người còn sống sót, chính vì điều này đã thôi thúc ông phải tìm ra những cách thức điều trị tốt nhất nhằm áp dụng cho các thương binh.

Vì những đóng góp hiệu quả của mình mà vào năm 1950, Joyeuse được vinh dự vào làm việc tại trường y của Đại học Paris. Vì những hành động dũng cảm trong thời chiến mà Joyeuse đã nhận được rất nhiều huy chương. Chẳng hạn như ông được trao Huân chương chữ thập phục vụ xuất sắc của Tổng thống Mỹ, Dwight D. Eisenhower. Chính phủ Pháp trao cho ông tước hiệu hiệp sĩ Bắc Đẩu bội tinh, Huân chương giải phóng v.v...

Vương quốc Lào còn trao cho Joyeuse (Veuve) Huân chương Triệu Voi và Bạch Ô (đây là tước vị hiệp sĩ cao nhất của vương quốc Lào. Huân chương này ra đời vào ngày 1/5/1909 bởi đức vua Sisavang Vong. Huân chương này được trao cho cả thường dân Lào và người ngoại quốc vì những công trạng vẻ vang cho dân sự hoặc quân sự. Huân chương ngừng được trao tặng khi chấm dứt chế độ quân chủ Lào vào ngày 2/12/1975, ra đời nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào). Vào ngày 21/3/2018, Quốc hội Hoa Kỳ đã trao tặng Huy chương vàng Quốc hội (giải thưởng dân sự cao nhất nước Mỹ) cho tất cả các điệp viên của OSS.

Sự nghiệp thời hậu chiến

Rene Joyeuse gặp bà xã Suzanne (một y tá) tại Đại học Paris. Sau khi tốt nghiệp, hai người di cư sang Mỹ, nơi đó ông Joyeuse làm việc với tư cách là bác sĩ mổ cấp cứu và chấn thương tại Mayo Clinic trong khi vẫn đeo đuổi bằng thạc sĩ về phẫu thuật của Đại học Minnesota, và sau đó ông làm nghiên cứu tại trường y trực thuộc Đại học California tại Los Angeles (UCLA). Trong thời gian làm việc tại UCLA, ông Joyeuse đã giúp phát triển thiết bị thay thế van tim sinh học đầu tiên. Trong tư cách phó giáo sư về phẫu thuật tại Cao đẳng y và nha khoa New Jersey (Rutgers/CMDN), ông đã tham gia với vai trò bác sĩ phẫu thuật chấn thương, đồng sáng lập nên Hiệp hội chấn thương Hoa Kỳ (ATS) và là chủ tịch của chi nhánh New Jersey. Ông luôn hăng hái tham gia đào tạo bác sĩ và nhân viên y tế khẩn cấp (EMT) trong chăm sóc chấn thương.

Nghĩa trang quốc gia Arlington, nơi an giấc ngàn thu của những người có công với nước Mỹ.

Nghĩa trang quốc gia Arlington, nơi an giấc ngàn thu của những người có công với nước Mỹ.

Gia đình ông Joyeuse đã nhiều lần thay đổi nơi cư trú và cuối cùng định cư tại Saranac Lake (New York), nơi ông Joyeuse làm giám đốc y khoa trong hệ thống nhà tù của tiểu bang New York. Cựu điệp viên huyền thoại Rene Joyeuse qua đời ngày 12/6/2012 sau 10 năm chật vật do căn bệnh Alzheimer hành hạ. Ông ra đi để lại bà xã Suzanne (1929-2020) và 2 cậu con trai. Joyeuse là người đầu tiên sinh ra ở Thụy Sỹ được vinh dự an táng ở Nghĩa trang quốc gia Arlington trong tháng 3/2013.

Khi Joyeuse tạ thế, lời đề nghị an táng ông tại Arlington đã bị bác do những hồ nghi về quyền công dân của ông trong thời chiến, cũng như việc ông không phải là thành viên của quân đội Hoa Kỳ. Có cả một phong trào của những người mến mộ ông nhằm đảo ngược quyết định đó và đã thành công ngoài mong đợi. Ông Rene Joyeuse được an táng tại nghĩa trang quốc gia.

Sử gia quân sự Patrick K. O’Donnell là một phần trong chiến dịch đó. Phát biểu với tờ Here & Now, ông O’Donnell quả quyết rằng nếu có ai xứng đáng được an táng ở nghĩa trang Arlington thì người đó không ai khác phải là Joyeuse. Sử gia O’Donnell giải thích: “Tôi đã phỏng vấn 5.000 cựu binh thời Thế chiến II, và chuyện về Joyeuse nổi bật hơn hết thảy. Đó là một câu chuyện phi thường về việc đã tận hiến cho nước Mỹ. Còn những hoạt động của ông ấy đằng sau chiến tuyến là huyền thoại. Đó chắc chắn là một trong những điệp viên vĩ đại nhất của OSS và của nước Mỹ”.

Ông Remi Joyeuse (người con trai của Rene Joyeuse) phát biểu với Here & Now rằng vì sao việc an táng cha ông tại Arlington là việc hệ trọng: “Cha tôi là một người lính và vinh dự cao nhất đối với một người lính là được chôn cất cạnh những anh hùng quân đội. Từ những thành tích trên chiến trường, cha tôi hoàn toàn xứng đáng với việc đó”.

Phan Bình (Tổng hợp)

Nguồn ANTG: https://antg.cand.com.vn/ho-so-mat/rene-joyeuse-nguoi-hung-tham-lang-cua-nuoc-my-i778358/
Zalo