Rà soát triển khai thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển
Kinh tế biển, ven biển tăng trưởng nhanh, đóng góp lớn cho phát triển kinh tế- xã hội. Nhiều ngành quan trọng như dịch vụ hàng hải, logistics, cảng biển, đóng tàu, khai thác dầu khí, nuôi biển và du lịch biển có bước phát triển vượt bậc. Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới đang nổi lên như động lực thúc đẩy kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn…

Kinh tế biển, ven biển tăng trưởng nhanh, đóng góp lớn cho phát triển kinh tế- xã hội. Ảnh minh họa
Ngày 18/11, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Thị Phương Hoa làm việc với Cục Biển và Hải đảo Việt Nam về tình hình thực hiện Nghị quyết số 26/NQ-CP của Chính phủ về Kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045 theo Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.
Thứ trưởng Nguyễn Thị Phương Hoa yêu cầu Cục Biển và Hải đảo Việt Nam rà soát toàn diện, báo cáo đầy đủ tình hình thực hiện các nhiệm vụ và kế hoạch triển khai trong thời gian tới theo Nghị quyết 26/NQ-CP. Đặc biệt, cần quan tâm tới đời sống của người dân ven biển, nhất là những người bị ảnh hưởng của những dự án phát triển kinh tế biển.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đề nghị Cục sớm nghiên cứu tổng kết Nghị quyết 36-NQ/TW để phục vụ xây dựng Luật Môi trường biển và hải đảo, trong đó phải nghiên cứu lợi thế của các địa phương có biển, tham khảo kinh nghiệm quản lý biển quốc tế, tiếp cận các mô hình quản trị tiên tiến và bảo đảm phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Theo Nghị quyết số 26/NQ-CP, 12 bộ và 28 địa phương ven biển (nay là 21 địa phương) được giao triển khai 51 nhiệm vụ, dự án, trong đó Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì 12 nhiệm vụ. Đến nay, phần lớn các dự án đã được triển khai hoặc lồng ghép thực hiện.
Cục Biển và Hải đảo Việt Nam cho biết qua theo dõi và tổng hợp từ các bộ, ngành và địa phương có biển, việc triển khai Nghị quyết số 26/NQ-CP đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Theo đó, công tác quản trị biển và đại dương có bước tiến rõ rệt, đặc biệt là việc lần đầu tiên lập và phê duyệt quy hoạch không gian biển quốc gia; hệ thống pháp luật về lấn biển, giao khu vực biển ngày càng hoàn thiện; bộ chỉ tiêu thống kê và bộ chỉ tiêu đánh giá quốc gia biển mạnh đã được ban hành.

Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới đang nổi lên như động lực thúc đẩy kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Ảnh minh họa
Kinh tế biển, ven biển tăng trưởng nhanh, đóng góp lớn cho phát triển kinh tế- xã hội. Nhiều ngành quan trọng như dịch vụ hàng hải, logistics, cảng biển, đóng tàu, khai thác dầu khí, nuôi biển và du lịch biển đều có bước phát triển vượt bậc; hạ tầng giao thông kết nối liên vùng được đầu tư mạnh mẽ, tạo quỹ đất và động lực hình thành các trung tâm logistics, công nghiệp ven biển. Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới đang nổi lên như động lực thúc đẩy kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
Đời sống người dân vùng biển tiếp tục được cải thiện, tiếp cận tốt hơn các dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là điện, nước sạch và hạ tầng thiết yếu. Công tác bảo vệ môi trường biển được tăng cường, nhiều hệ sinh thái biển, ven biển và hải đảo được phục hồi; bản đồ hải đồ, địa hình đáy biển đã được hoàn thành ở phần lớn diện tích vùng biển.
Trong lĩnh vực khoa học, công nghệ biển, hợp tác quốc tế với Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Canada và các tổ chức quốc tế được mở rộng; các luận cứ khoa học về hệ sinh thái, địa chất biển, thiên tai và biến đổi khí hậu từng bước được làm rõ.
Vấn đề ô nhiễm môi trường biển được kiểm soát tốt, việc quản lý hệ sinh thái biển, ven biển và đảo ngày càng được quan tâm. Đến nay cả nước có 12 Khu bảo tồn biển được thành lập với diện tích hơn 206 nghìn ha, trong đó có 185 nghìn ha biển; cơ bản hoàn thành bản đồ hải lý tỷ lệ 1:200.000 cho 82% diện tích vùng biển…
Bên cạnh những kết quả đạt được, báo cáo cũng chỉ rõ nhiều hạn chế như thiếu cơ chế đột phá để thu hút nguồn lực tư nhân; một số quy định pháp luật còn chồng chéo; kinh tế biển phát triển chưa đồng bộ; logistics và kinh tế cảng biển chậm đổi mới; ô nhiễm tại các khu công nghiệp ven biển còn tiềm ẩn.
Ngoài ra, hoạt động lấn biển chưa được đánh giá tổng thể, nguy cơ ảnh hưởng hệ sinh thái và ổn định đường bờ; quan trắc môi trường biển còn mỏng; điều tra cơ bản biển, nhất là vùng biển sâu, còn hạn chế do thiếu phương tiện, thiết bị chuyên dụng.






























