Quốc hội thông qua Luật Công nghiệp công nghệ số
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, ngày 14/6, Quốc hội đã thông qua dự án Luật Công nghiệp công nghệ số với 441/445 đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tham gia biểu quyết tán thành (chiếm 92,26% tổng số ĐBQH).
Luật Công nghiệp công nghệ số gồm 6 chương, 51 điều, quy định về phát triển công nghiệp công nghệ số, công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, tài sản số, quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Luật này không điều chỉnh hoạt động công nghiệp công nghệ số chỉ phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh, hoạt động cơ yếu để bảo vệ thông tin bí mật nhà nước.
Về Chính sách phát triển công nghiệp công nghệ số, nội dung luật nêu rõ, huy động nguồn lực đầu tư cho nghiên cứu, phát triển, thiết kế, chuyển giao công nghệ; từng bước làm chủ công nghệ số; xây dựng hạ tầng công nghiệp công nghệ số dùng chung quy mô vùng, quốc gia nhằm thúc đẩy hoạt động công nghiệp công nghệ số. Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực công nghiệp công nghệ số; phát triển cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp chuyên ngành công nghệ số; có cơ chế ưu đãi đặc biệt nhằm thu hút, trọng dụng nhân lực công nghiệp công nghệ số chất lượng cao, nhân tài công nghệ số.

Với đa số đại biểu tán thành, Quốc hội đã thông qua Luật Công nghiệp công nghệ số gồm 6 chương, 51 điều.
Có cơ chế thử nghiệm có kiểm soát đối với sản phẩm, dịch vụ ứng dụng công nghệ số trong các ngành, lĩnh vực, trong đó có cơ chế loại trừ trách nhiệm đối với cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong thử nghiệm. Có cơ chế ưu đãi về đất đai, tín dụng, thuế và các cơ chế ưu đãi khác trong nghiên cứu, thử nghiệm, phát triển, sản xuất, ứng dụng sản phẩm, dịch vụ công nghệ số. Phát triển thị trường cho công nghiệp công nghệ số; có cơ chế đặt hàng, ưu tiên đầu tư, thuê, mua sắm sản phẩm, dịch vụ công nghệ số sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước. Phát triển dữ liệu số trong hoạt động công nghiệp công nghệ số trở thành tài nguyên, tư liệu sản xuất quan trọng và là nền tảng phục vụ nghiên cứu, phát triển, thúc đẩy công nghiệp công nghệ số.
Đẩy mạnh phát triển, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong các ngành, lĩnh vực và các mặt của đời sống kinh tế - xã hội; đưa trí tuệ nhân tạo trở thành phương thức sản xuất mới; thúc đẩy mạnh mẽ năng lực nội sinh quốc gia, tạo ra những mô hình kinh tế mới với năng suất và giá trị vượt trội. Nhà nước có chính sách ưu đãi cao nhất để thúc đẩy, nghiên cứu, phát triển, triển khai, sử dụng trí tuệ nhân tạo. Có chính sách ưu đãi vượt trội để phát triển ngành công nghiệp bán dẫn, hình thành hệ sinh thái bán dẫn Việt Nam. Phát triển công nghiệp công nghệ số bền vững, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, giảm thiểu tác động xấu đến môi trường.
Bên cạnh đó, luật cũng quy định, cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoặc có liên quan đến hoạt động công nghiệp công nghệ số phải tuân thủ quy định của pháp luật về an toàn thông tin mạng, an ninh mạng, pháp luật về dữ liệu, dữ liệu cá nhân và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Đại biểu Quốc hội bấm nút thông qua Luật Công nghiệp công nghệ số.
Trước khi bấm nút biểu quyết thông qua dự án luật, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy cho biết, dự thảo luật trình Quốc hội thông qua đã tiếp thu đầy đủ ý kiến các ĐBQH, các cơ quan hữu quan, kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ý kiến của Chính phủ. Sau khi tiếp thu, chỉnh lý, dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số gồm 6 chương, 51 điều, bỏ 6 điều so với dự thảo luật trình Quốc hội ngày 9/5/2025; đã bám sát quan điểm, mục đích, nhóm chính sách xây dựng dự thảo luật, rà soát thống nhất với các luật liên quan; góp phần thể chế hóa các nghị quyết của Đảng mới được ban hành gần đây.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy cho biết thêm, dự thảo luật đã rà soát, chỉnh lý các quy định thúc đẩy đào tạo nhân lực về công nghệ số. Cụ thể, thúc đẩy hoạt động đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng về công nghệ số (bao gồm trí tuệ nhân tạo) trong hệ thống giáo dục quốc dân tại khoản 1 Điều 18; phát triển nhân lực công nghiệp công nghệ số trong doanh nghiệp và cơ quan nhà nước tại khoản 2 Điều 18; chiến lược nghiên cứu, phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo tại Điều 43… Các quy định này là nền tảng tổng thể để thúc đẩy đào tạo các kiến thức cơ bản và chuyên sâu công nghệ số nói chung và trí tuệ nhân tạo nói riêng trong và ngoài cơ quan nhà nước.
Có ý kiến cho rằng cần xây dựng một khung pháp lý tài sản số quy định chi tiết các vấn đề cốt lõi, xác định ngay các nội dung phải thực hiện (quyền tài sản, quyền sở hữu, giao dịch, bảo mật, trách nhiệm, giải quyết tranh chấp, quản lý rủi ro)..., vừa bảo đảm tính thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành và thông lệ quốc tế, đồng thời thiết lập cơ chế quản lý, giám sát, phòng ngừa rủi ro; làm rõ tài sản số có thể sử dụng cho mục đích trao đổi hoặc đầu tư hay không; đề nghị làm rõ nội hàm, tiêu chí phân loại tài sản số.
Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, theo dự thảo luật, tài sản số đã được quy định là tài sản theo pháp luật dân sự hiện hành. Quyền tài sản, quyền sở hữu, giao dịch, bảo mật, trách nhiệm, giải quyết tranh chấp, quản lý rủi ro… đã được điều chỉnh theo quy định của pháp luật hình sự, pháp luật về phòng, chống tham nhũng, chống rửa tiền và pháp luật có liên quan. Do đó, nhằm bảo đảm tính khả thi, linh hoạt và ổn định của hệ thống pháp luật, dự thảo luật chỉ quy định mang tính nguyên tắc và giao Chính phủ quy định cụ thể cho phù hợp với thực tiễn phát triển.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo luật đã quy định cụ thể hơn một số nội dung cốt lõi trong quản lý nhà nước về tài sản số tại khoản 1 Điều 49 (bao gồm việc tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao, xác lập quyền sở hữu tài sản số; quyền, nghĩa vụ của các bên đối với hoạt động có liên quan đến tài sản số; biện pháp bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng; phòng, chống rửa tiền, phòng, chống tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt; thanh tra, kiểm tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật; điều kiện kinh doanh đối với cung cấp dịch vụ tài sản mã hóa…) và giao Chính phủ quy định chi tiết về thẩm quyền, nội dung quản lý, phân loại tài sản số phù hợp với thực tiễn, yêu cầu quản lý trong các ngành, lĩnh vực (khoản 2 Điều 49).