Quốc hội 'chốt' lãi suất cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước là 0%/năm
Sáng 27-6, với đa số đại biểu tán thành, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng gồm 3 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/2025.
Trình bày báo cáo tóm tắt tiếp thu, giải trình trước khi Quốc hội thông qua dự thảo Luật, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng cho biết, đa số đại biểu Quốc hội tán thành việc phân cấp thẩm quyền quyết định việc cho vay đặc biệt đối với khoản vay có lãi suất 0%/năm, khoản vay không có tài sản bảo đảm (TSBĐ) từ Thủ tướng Chính phủ sang Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện quy định về lãi suất cho vay đặc biệt trên cơ sở ý kiến của cấp có thẩm quyền, bảo đảm phù hợp với thực tiễn và cơ chế điều hành chính sách tiền tệ.
Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, thực hiện ý kiến của cơ quan có thẩm quyền, Chính phủ đề xuất điều chỉnh khoản 1 Điều 1 dự thảo Luật nhằm bảo đảm việc cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước chỉ được thực hiện khi tổ chức tín dụng rơi vào tình trạng rất khó khăn về thanh khoản hoặc để thực hiện phương án phục hồi, phương án chuyển giao bắt buộc với mục tiêu bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, bảo đảm an toàn của hệ thống tổ chức tín dụng.
Cụ thể Điều 1 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng, trong đó sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 193 như sau: “Ngân hàng Nhà nước quyết định cho vay đặc biệt có TSBĐ, không có TSBĐ đối với tổ chức tín dụng trong trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 192 của Luật này. TSBĐ của khoản vay đặc biệt từ Ngân hàng Nhà nước theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Lãi suất cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước là 0%/năm”.

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng trình bày báo cáo. Ảnh: Quochoi.vn
Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cũng báo cáo việc rà soát kỹ lưỡng, tiếp thu tối đa ý kiến của đại biểu Quốc hội và cơ quan chủ trì thẩm tra về các quy định liên quan đến điều kiện để có quyền thu giữ TSBĐ của khoản nợ xấu; làm rõ vai trò, trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa UBND cấp xã và cơ quan Công an cấp xã bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thu giữ TSBĐ và các bên có liên quan. Tiếp tục kế thừa 2 quy định trong Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
Để bảo đảm thủ tục thu giữ TSBD được thực hiện một cách chặt chẽ để vừa tháo gỡ vướng mắc, vừa giảm thiểu các ảnh hưởng có thể phát sinh, Chính phủ đề xuất chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng bổ sung điểm đ khoản 2 Điều 198a dự thảo Luật quy định “tài sản bảo đảm được thu giữ phải đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ".
Trên cơ sở quy định được bổ sung này, cơ quan chủ trì soạn thảo sẽ phối hợp với các cơ quan, bộ, ngành có liên quan (Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao,...) để nghiên cứu điều kiện của TSBĐ của khoản nợ xấu mà tổ chức tín dụng được quyền thu giữ nhằm cụ thể hóa chủ trương phát triển kinh tế tư nhân theo Nghị quyết số 68-NQ/TW

Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh điều hành nội dung họp. Ảnh: Quochoi.vn
Về quyền thu giữ TSBĐ, Luật được thông qua quy định, bên bảo đảm, người đang giữ TSBĐ của khoản nợ xấu có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm kèm theo giấy tờ, hồ sơ pháp lý của tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ để xử lý theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm hoặc trong văn bản khác (sau đây gọi là hợp đồng bảo đảm) và quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Trường hợp bên bảo đảm, người đang giữ TSBĐ không giao tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ để xử lý thì tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ được thu giữ tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều này.
UBND cấp xã và cơ quan Công an cấp xã nơi tiến hành thu giữ TSBĐ, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện việc bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm.
Trường hợp bên bảo đảm không hợp tác hoặc không có mặt theo thông báo của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ, đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm tham gia chứng kiến và ký biên bản thu giữ tài sản bảo đảm.
Tổ chức tín dụng chỉ được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của tổ chức tín dụng đó; tổ chức mua bán, xử lý nợ chỉ được ủy quyền thu giữ TSBĐ cho tổ chức tín dụng bán nợ, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của tổ chức tín dụng bán nợ; tổ chức tín dụng được chuyển giao bắt buộc được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng nhận chuyển giao bắt buộc hoặc công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của tổ chức tín dụng nhận chuyển giao bắt buộc.
Theo Luật, tài sản của bên phải thi hành án đang được sử dụng làm tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ bị kê biên, xử lý theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự khi thuộc một trong các trường hợp: hợp đồng bảo đảm đã được ký kết và phát sinh hiệu lực sau thời điểm bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật; thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe; có sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ.