Quốc hiệu Việt Nam hội tụ khát vọng của dân tộc và mục tiêu thời đại

Nhìn từ góc độ liên văn hóa, quốc hiệu Việt Nam là sự hội tụ, kết tinh của khát vọng Việt Nam, tinh hoa của 'Tuyên ngôn độc lập' của nước Mỹ, 'Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền' của nước Pháp và sự 'thích hợp với điều kiện nước ta' của chủ nghĩa Tam dân, đó là: Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.

Tên nước - dồn nén khát vọng của cả một dân tộc

Anh hùng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) ghi nhận, đánh giá cao, vì trong tác phẩm bất hủ “Đại cáo bình Ngô” đưa ra công thức dân tộc nổi tiếng, gồm 5 phương diện: tên nước (nước Đại Việt); văn hiến; ranh giới, lãnh thổ (núi sông bờ cõi đã chia); lịch sử (Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần); con người, cụ thể là người tài (song hào kiệt đời nào cũng có).

Tên nước là yếu tố đầu tiên để phân biệt, định vị, làm rõ cương vị của một quốc gia. Ngày nay, trong thời buổi hội nhập toàn cầu, tên nước càng quan trọng, vì đó là mã cơ bản, quan trọng nhất của một nền văn hóa. Cách đặt tên nước trên thế giới, hầu như nhất trí theo nguyên tắc: Ngắn gọn nhất nhưng nói được nhiều nhất về quan niệm, mục đích, giá trị, vai trò, quyết tâm, khát vọng, phương hướng phát triển của cả một quốc gia. Quốc hiệu của nước ta là hướng phấn đấu đi lên chủ nghĩa xã hội, kèm theo tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”, tức là những mục đích mà đất nước hướng tới, khẳng định, giữ gìn.

Biểu dương tinh thần, sức mạnh đại đoàn kết của 54 dân tộc anh em tại diễu binh, diễu hành kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày 7-5 2024. Ảnh: TUẤN HUY

Biểu dương tinh thần, sức mạnh đại đoàn kết của 54 dân tộc anh em tại diễu binh, diễu hành kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày 7-5 2024. Ảnh: TUẤN HUY

Khát vọng ngàn đời của cha ông ta là hạnh phúc, như Chế Lan Viên từng diễn đạt bằng thơ: “Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời/ Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa/ “Những pho tượng chùa Tây Phương” không biết cách trả lời/ Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ.../ Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi!” ("Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?"). Một khát vọng đau đớn vượt qua cái đói nghèo để vươn tới miền hạnh phúc, nhưng bất lực. Vì cánh cửa phong kiến cổ hủ, bần cùng, lạc hậu vẫn đóng chặt. Phải đợi đến khi Cách mạng mùa thu Tháng Tám năm 1945 về thì chúng ta mới chạm tới ý nghĩa của hai chữ “hạnh phúc” thiêng liêng.

Mẫu số chung của các tư tưởng tiến bộ, cách mạng

Từ góc nhìn triết học liên văn hóa, nhiều nghiên cứu thế giới đánh giá cao ý nghĩa cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã kế thừa, kết tinh, phát triển, nâng cao thành tựu từ các cuộc khởi nghĩa trong lịch sử Việt Nam và các cuộc cách mạng trước đó trên thế giới cả về tư tưởng, tinh thần, phương pháp.

Đóng vai trò thiết kế, tổ chức và lãnh đạo, Hồ Chí Minh phải có tầm nhìn thời đại, thấu hiểu lịch sử, thấu cảm nhân tâm để có những quyết sách đúng đắn. Từ khi học ở Huế, Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc xu hướng Tân thư của Trung Quốc với những tư tưởng cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu. Sang phương Tây, được học hỏi, tiếp thu nhiều thành tựu văn minh nhân loại, Người đã tìm ra một mẫu số chung các tư tưởng lớn của Khổng Tử, Chúa Giêsu, C.Mác, Tôn Dật Tiên là đều muốn “mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội”. Ngày 12-10-1945, Bác Hồ ký Sắc lệnh số 49 về việc ghi rõ quốc hiệu Việt Nam Dân chủ cộng hòa, phía dưới có dòng tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”.

Nhìn từ góc độ liên văn hóa, quốc hiệu Việt Nam là sự hội tụ, kết tinh của khát vọng Việt Nam, tinh hoa của “Tuyên ngôn độc lập” của nước Mỹ, “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của nước Pháp và sự “thích hợp với điều kiện nước ta” của chủ nghĩa Tam dân, đó là: Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Mục đích cao nhất của Bác Hồ là mang lại hạnh phúc cho dân: “Làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. “Có cơm ăn áo mặc”, “được học hành” là hạnh phúc.

“Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” là tiêu chí, tiêu chuẩn giá trị về quyền dân tộc và quyền con người Việt Nam, là con đường của cách mạng Việt Nam, là mục tiêu, yêu cầu, cũng là động lực trong việc xây dựng xã hội dân chủ, vì dân, lấy dân làm gốc. Nhìn sâu vào lịch sử nhân loại đều thấy chân lý: Độc lập là khát vọng của mọi dân tộc; tự do là khát vọng chung của loài người. Theo lẽ tự nhiên, là người, ai cũng mong muốn hạnh phúc. Thế nên “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” là hằng số gắn nối, gắn kết theo nguyên tắc làm bạn với tất cả các nước dân chủ. Độc lập là tiền đề để có Tự do. Độc lập - Tự do là cơ sở cho Hạnh phúc.

Khát vọng cháy bỏng của Bác Hồ và của dân tộc Việt Nam

Như một thấu kính hội tụ tự kết tinh những ánh sáng tinh hoa về độc lập, tự do của thế giới, Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển, nâng lên thành một chân lý bất hủ: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Độc lập, tự do từng là khát vọng ngàn đời của dân tộc trở thành động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy Người ra đi tìm đường cứu nước.

Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc kể lại với nhà văn Liên Xô Ôxíp Manđenxtam: “Vào trạc tuổi mười ba, lần đầu tiên tôi được nghe những từ Pháp “tự do, bình đẳng, bác ái” nên rất muốn làm quen với nền văn minh phương Tây”. Khi ra nước ngoài, được tiếp xúc với nhiều tư tưởng mới mẻ, tiến bộ, Nguyễn Ái Quốc thấu hiểu thế nào là một nước tự do, độc lập. Ở người thanh niên yêu nước ấy, dần dần hình thành lý tưởng, cháy bỏng một khát vọng “đồng bào tự do, Tổ quốc độc lập”. Cùng dân tộc đấu tranh giành được độc lập, ở cương vị Chủ tịch nước, nỗi thao thức lớn nhất của Người vẫn là làm sao để dân hạnh phúc. Hơn ai hết, Người nắm rõ nhất một biện chứng “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Từng là công dân của một nước nô lệ, Người thấu hiểu sâu sắc thế nào là nước độc lập, thấu cảm tận cùng thế nào là người tự do. Người đưa ra quyết định lịch sử sau Ngày Độc lập: Làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, được học hành. Ăn, ở, mặc, học hành là 4 cây trụ cột của “ngôi nhà” nhân cách người. Đó cũng là 4 cây trụ cột của ngôi nhà Hạnh phúc.

“Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh”...

Ngày 1-1-1961, Bác Hồ viết “Thơ mừng năm 1961” có câu: “Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh”, cho thấy quan niệm của Bác về hạnh phúc là đồng nghĩa với những gì tốt đẹp, mới mẻ, đầy tràn hy vọng. “Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh” không của cá nhân nào mà của tất cả mọi người, không của riêng Việt Nam ta mà còn là của cả thế giới. Những người cộng sản như Bác Hồ thì hạnh phúc là dâng hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân”.

Mặt trời cách mạng Hồ Chí Minh tỏa ra những luồng ánh sáng ý nghĩa về hạnh phúc, làm thế giới hôm nay ngạc nhiên, khâm phục, học tập.

Một là: Con người hạnh phúc trước hết là con người có lý tưởng, sẵn sàng phấn đấu, cống hiến, hy sinh vì mục đích cao cả, tốt đẹp của dân tộc mình và của nhân loại. Lý tưởng luôn đi cùng, gắn chặt với niềm tin. Người giàu có lý tưởng cũng là người giàu có niềm tin.

Hai là: Hạnh phúc luôn có một nét nghĩa thỏa mãn trong hưởng thụ, hưởng thụ vật chất (ăn, ở, mặc...), hưởng thụ tinh thần (giáo dục, văn hóa...). Về phương diện này, Bác Hồ là người nhìn thấy sớm nhất và có cách giải quyết tuyệt vời nhất. Khi đất nước sa vào tình trạng kiệt quệ, với tầm nhìn nhân văn, thiết thực, cụ thể, Bác ưu tiên hai nhiệm vụ cấp bách trước mắt diệt giặc đói, diệt giặc dốt. Triết học văn hóa hôm nay quan niệm cây xanh con người sẽ khẳng khiu còi cọc vì không đủ chất dinh dưỡng cần thiết và không được quang hợp ánh sáng trí tuệ trong bầu trời văn hóa nhân loại. Bác của chúng ta đã đi trước thời đại cả nửa thế kỷ.

Ba là: Hạnh phúc là cống hiến, là trách nhiệm, là sự sẻ chia. Muốn vậy phải học tập để thành quả lao động tốt hơn mà phục vụ tốt hơn nữa cho dân cho nước thì lao động là hạnh phúc: “Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”.

Bốn là: Hạnh phúc gắn liền với dân chủ. Một xã hội hạnh phúc là xã hội dân chủ, dân là chủ và dân làm chủ.

Năm là: Hạnh phúc còn là một tinh thần khỏe mạnh trong một thân thể khỏe mạnh, là sự vô tư trong sáng, quên tuổi tác: “Tự cung thanh đạm tinh thần sảng” ("Thất cửu"), sống thanh đạm thì sảng khoái, nhẹ nhàng, sống vô tư, trung thực, trong sáng, không vụ lợi thì tinh thần sẽ sáng suốt, thông tuệ.

Có thể coi 5 ý tứ trên hợp thành một “triết lý về hạnh phúc” của Hồ Chí Minh-một triết lý trường tồn cùng dân tộc và sống mãi với thời đại.

PGS, TS NGUYỄN THANH TÚ

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/80-nam-cach-mang-thang-tam-va-quoc-khanh-2-9/quoc-hieu-viet-nam-hoi-tu-khat-vong-cua-dan-toc-va-muc-tieu-thoi-dai-844329
Zalo