Quản lý nước thải mỏ bền vững: Ngành than kiên định với mục tiêu bảo vệ môi trường

Được ví như 'vàng đen' của Tổ quốc, ngành than từ lâu đã giữ vai trò quan trọng, đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, do đặc thù khai thác và sản xuất, ngành than cũng là lĩnh vực có nhiều tác động đến môi trường, trong đó nổi bật là vấn đề nước thải mỏ.

Nhiệm vụ xử lý, tái sử dụng nước thải mỏ

Mỗi năm, ngành than khai thác, sản xuất khoảng 40 - 41 triệu tấn than, kéo theo lượng nước thải mỏ khổng lồ. Lượng nước thải này đến từ cả hai hoạt động khai thác lộ thiên và hầm lò. Với khai thác lộ thiên, quá trình bóc đất đá tạo nên các hố moong sâu so với địa hình tự nhiên của khu vực, nguồn nước chảy vào moong bao gồm nước ngầm và nước mưa. Trong khi, khai thác hầm lò lại tạo ra những đường lò đi sâu xuống lòng đất, nguồn nước chảy vào hầm lò chủ yếu là nước ngầm thấm ra. Để khai thác than, việc bơm thoát nước ra khỏi khu vực là điều tất yếu, từ đó phát sinh hàng trăm triệu m³ nước thải mỏ.

Đặc điểm chung của loại nước thải này thường có tính axit cao, hàm lượng kim loại nặng và chứa nhiều tạp chất nguy hại. Nếu không được xử lý, việc xả thải trực tiếp ra môi trường sẽ gây ô nhiễm nguồn nước, đất, đồng thời đe dọa sức khỏe con người. Nhận thức rõ trách nhiệm với môi trường, ngành than luôn coi công tác xử lý nước thải mỏ là một trong những nhiệm vụ xuyên suốt, song hành với hoạt động khai thác, sản xuất.

Minh chứng là thời gian qua, ngành than đã không ngừng đổi mới công nghệ, nâng công suất các trạm xử lý nhằm xử lý tối đa lượng nước thải mỏ phát sinh trong quá trình khai thác. Cùng với đó, việc quản lý và giám sát chất lượng nước thải mỏ sau xử lý cũng được triển khai nghiêm ngặt, bảo đảm mọi nguồn nước thải trước khi xả ra môi trường đều đạt quy chuẩn áp dụng QCVN 40:2011/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp.

Không chỉ dừng lại ở xử lý, ngành than còn xác định đây là một trong những nguồn tài nguyên quan trọng, cần tính toán để tái sử dụng, góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Rõ ràng, hàng trăm triệu m³ nước thải mỏ sau xử lý mỗi năm là một con số khổng lồ, có thể tận dụng cho các nhu cầu dùng nước. Vì vậy, để tránh lãng phí nguồn tài nguyên nước, ngành than đã và đang đẩy mạnh tái sử dụng tối đa nước thải mỏ.

Kiên định mục tiêu quản lý nước thải mỏ bền vững

Là nhà sản xuất than lớn nhất Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) luôn cam kết 100% nước thải mỏ của Tập đoàn được xử lý triệt để trước khi xả ra môi trường. Trao đổi với phóng viên Báo Pháp luật Việt Nam, ông Nguyễn Mạnh Chuyền - Phó Trưởng Ban Môi trường TKV cho biết, hằng năm, Tập đoàn xử lý khoảng 150 triệu m³ nước thải mỏ, quản lý và vận hành 47 trạm xử lý. Công tác xử lý nước thải mỏ tại tất cả công ty thành viên khai thác than đều tuân thủ đầy đủ theo quy trình nghiêm ngặt, áp dụng công nghệ ngày càng hiện đại và hiệu quả.

Cùng với công tác xử lý, TKV đẩy mạnh việc tái sử dụng nước thải mỏ. Theo báo cáo, nước thải mỏ của TKV được xử lý đều đạt loại A, loại B theo quy chuẩn về môi trường và được quản lý nghiêm ngặt thông qua hệ thống quan trắc môi trường tự động. Sau khi xử lý, nước thải mỏ được TKV tái sử dụng phục vụ sản xuất nội bộ như phun tưới nước dập bụi hoặc nếu bảo đảm quy chuẩn có thể đem tưới cây. Song, hiện nay tỷ lệ tái sử dụng nước thải mỏ của TKV vẫn còn khiêm tốn, chỉ khoảng 20 - 40%, phần lớn vẫn phải xả ra môi trường. Thực tế, đây là tình trạng chung của toàn ngành than, không chỉ gây lãng phí nguồn tài nguyên nước, tình trạng này còn đặt ra nhiều thách thức đối với bài toán an ninh nguồn nước.

Để có thể nâng cao khả năng tái sử dụng nguồn nước thải mỏ, tránh lãng phí và tiết kiệm nguồn tài nguyên nước, ngành than cần nghiên cứu xử lý, nâng cao chất lượng nước thải đã đạt quy chuẩn loại A, loại B nhằm đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước sạch sử dụng cho mục đích sinh hoạt QCVN 01-1:2024/BYT. Đồng thời, cần quy hoạch cấp nước theo địa bàn, tận dụng các moong than lộ thiên đã kết thúc khai thác làm hồ chứa nước để tiếp tục xử lý, cung cấp cho các nhu cầu dùng nước.

Đây cũng là định hướng mà TKV nói riêng và toàn ngành than nói chung đang hướng đến. Trong tương lai, ngành than kiên định với mục tiêu quản lý nước thải mỏ theo hướng bền vững, không bỏ phí tài nguyên, không gây hại môi trường. Định hướng này hoàn toàn phù hợp với quan điểm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước: không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế, đồng thời đáp ứng các quy định của Luật Bảo vệ môi trường 2020 và Luật Tài nguyên nước 2023.

Trong chuyến khảo sát thực tế tại mỏ than Núi Béo do Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ) chủ trì, trả lời phóng viên Báo Pháp luật Việt Nam, ông Nguyễn Xuân Toàn - Phó Trưởng phòng Đầu tư và Môi trường, Công ty CP Than Núi Béo - Vinacomin cho biết, Công ty đã xây dựng kế hoạch phòng ngừa, kiểm soát nguồn nước thải mỏ trước và trong quá trình khai thác. Ví dụ, hệ thống mương thoát nước được bố trí dọc tuyến đường vận chuyển tại bãi thải mỏ có nhiệm vụ dẫn toàn bộ lượng nước bề mặt bãi thải mỏ về hồ lắng tập trung. Từ đây, nước thải mỏ được thu gom, bơm lên hệ thống xử lý nước thải với công suất: 1.200m³/h, công nghệ xử lý: lắng lamela, lọc mangan. Và chỉ xả ra môi trường sau khi đã đạt quy chuẩn áp dụng QCVN 40:2011/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp, cột B.

Linh Chi

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/quan-ly-nuoc-thai-mo-ben-vung-nganh-than-kien-dinh-voi-muc-tieu-bao-ve-moi-truong.html
Zalo