Phục hồi hệ sinh thái đất ngập nước với mô hình thích ứng
Việc điều tiết lại mực nước gắn với mô hình sinh kế thích ứng lũ đang mở ra hướng phục hồi hệ sinh thái bền vững hơn cho khu vực Vườn quốc gia Tràm Chim (tỉnh Đồng Tháp).

Du khách tham quan, khám phá Vườn quốc gia Tràm Chim. (Ảnh: HỮU TÀI)
Nhiều năm qua, tại khu vực Vườn quốc gia Tràm Chim (tỉnh Đồng Tháp), biến đổi khí hậu, sự thay đổi chế độ thủy văn sông Mê Công cùng sự can thiệp của con người đã khiến hệ sinh thái ở đây bị tổn thương, cuộc sống của người dân vùng đệm bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, với trọng tâm điều tiết lại mực nước gắn với mô hình sinh kế thích ứng lũ đang mở ra hướng phục hồi hệ sinh thái bền vững hơn.
Vườn quốc gia Tràm Chim có diện tích 7.313ha, chia thành năm phân khu từ A1-A5, trong đó diện tích rừng tràm chiếm khoảng 35,3%. Vùng đệm của Vườn quốc gia có khoảng 50.000 người dân, sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp, khai thác thủy sản, chăn nuôi, nghề thủ công, buôn bán nhỏ, làm thuê.
Hệ sinh thái vì thế vừa là không gian sinh tồn của các loài hoang dã, vừa là “nguồn vốn tự nhiên” bảo đảm sinh kế cho cộng đồng địa phương.
Theo thống kê, Vườn quốc gia Tràm Chim có 139 loài thực vật (trong đó có bảy loài quý hiếm), 225 loài chim nước (22 loài quý hiếm), 67 loài thủy sản (13 loài quý hiếm), 40 loài lưỡng cư bò sát (tám loài quý hiếm), cùng nhiều loài phiêu sinh, động thực vật nổi và đáy.
Đáng chú ý, đây là nơi cư trú quan trọng của sếu đầu đỏ - loài chim quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng. Trong nhiều năm, để phòng cháy và phục vụ mục tiêu quản lý, mực nước tại một số phân khu của Vườn quốc gia thường được giữ khá cao và kéo dài.
Hệ sinh thái vì thế vừa là không gian sinh tồn của các loài hoang dã, vừa là “nguồn vốn tự nhiên” bảo đảm sinh kế cho cộng đồng địa phương.
Hệ quả là những loài đặc trưng của hệ sinh thái đất ngập nước theo nhịp lũ tự nhiên như lúa ma, năng kim bị thu hẹp diện tích; sinh cảnh của nhiều loài chim nước, nhất là sếu đầu đỏ bị suy giảm.
Chính vì vậy, Dự án Mạng lưới đa dạng sinh học và dịch vụ hệ sinh thái (Dự án BES-NET) do Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) tài trợ đã hỗ trợ Vườn quốc gia Tràm Chim phục hồi hệ sinh thái đất ngập nước và mô hình sinh kế thay thế tại các phân khu, trong đó có A1 và A5.
Nguyên tắc quản lý mới dựa trên việc bám sát chế độ thủy văn tự nhiên, khi mực nước tại thước đo đạt ngưỡng nhất định (155cm ở khu A1, 125cm ở khu A5) thì đóng cống, đồng thời theo dõi mực nước ngầm tại bãi năng; khi mực nước ngầm xuống -20 đến -30cm thì bơm bổ sung để giữ ẩm, tránh khô hạn cực đoan.

Cổng vào Vườn quốc gia Tràm Chim.
Theo ông Nguyễn Hoàng Minh Hải, Trưởng phòng Khoa học Công nghệ và Hợp tác quốc tế, Vườn quốc gia Tràm Chim, năm 2023 mực nước nhiều thời điểm vẫn giữ ở mức quá cao, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho các loài thực vật ưa điều kiện nước cạn theo mùa phát triển.
Năm 2024, việc điều tiết điều chỉnh hợp lý hơn, mực nước được hạ thấp theo đúng thời gian sinh trưởng, giúp cây năng kim phát triển trở lại trên các bãi, lúa ma bắt đầu phục hồi, chim nước cũng xuất hiện nhiều hơn.
Đáng chú ý, bốn cá thể sếu đầu đỏ xuất hiện trở lại tại khu A5. Song song với phục hồi hệ sinh thái, dự án còn thử nghiệm mô hình sinh kế thích ứng lũ trên diện tích 50ha.
Trên nền ruộng lúa, người dân cùng với Vườn quốc gia nạo vét ao trữ cá, rào lưới và lắp biển báo, đặt “hom” nhử cá, tổ chức theo dõi, thu hoạch có sự giám sát chặt chẽ. Mô hình này dựa trên nguyên tắc tận dụng nguồn lợi thủy sản tự nhiên theo mùa lũ, vừa khai thác hợp lý, vừa không gây áp lực lên nguồn lợi trong lõi Vườn quốc gia.
Sau một vụ triển khai, tổng sản lượng khai thác đạt 14.730kg cá, doanh thu hơn 106 triệu đồng, đóng góp trực tiếp cho hợp tác xã và các xã viên tham gia. Không chỉ tăng thu nhập, mô hình còn giúp giảm đáng kể chi phí đầu vào như chuẩn bị đất, rút nước, tiết kiệm phân bón nhờ lượng phù sa.
Về mặt xã hội, mô hình trữ cá tạo thêm việc làm cho người dân, giảm áp lực kinh tế, nhất là với các hộ dễ bị tổn thương khi thu nhập từ đánh bắt, nuôi trữ cá hỗ trợ thêm chi phí sinh hoạt, học tập cho con em.
Đáng chú ý, tỷ lệ phụ nữ tham gia đạt 46%, góp phần nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ trong cộng đồng, thúc đẩy bình đẳng giới ngay từ hoạt động sinh kế cụ thể. Mô hình cũng trở thành “cầu nối” để các xã viên chia sẻ kinh nghiệm, kỹ thuật nuôi cá, thông tin thị trường, qua đó củng cố tình đoàn kết cộng đồng.
Ở góc độ môi trường, mô hình trữ cá tận dụng nguồn lợi tự nhiên theo hướng bền vững, thích nghi tốt với biến động lũ, tạo môi trường thuận lợi cho thủy sản tự nhiên sinh trưởng, cải thiện độ phì nhiêu của đất, giảm rủi ro từ biến đổi khí hậu. Thay vì “chống lũ”, người dân học cách “sống cùng lũ”, biến dòng nước thành nguồn lực phục vụ sinh kế.
Theo ông Vũ Thái Trường, Trưởng phòng Biến đổi khí hậu và Môi trường - UNDP Việt Nam, Dự án BES-Net do UNDP tài trợ đã mang lại những hiệu quả. Song, một trong những nội dung quan trọng của BES-Net là thử nghiệm Đề án chi trả dịch vụ hệ sinh thái đất ngập nước tại Vườn quốc gia Tràm Chim, làm cơ sở quan trọng để hoàn thiện chính sách dành cho vùng đất ngập nước và biển.
Nếu triển khai hiệu quả, chi trả dịch vụ hệ sinh thái sẽ trở thành nguồn lực tài chính bền vững, gắn lợi ích của người dân với mục tiêu bảo tồn, giúp họ hưởng lợi trực tiếp khi tham gia giữ rừng, giữ nước, giữ đa dạng sinh học.






























