Phòng ngừa, xử lý nhanh rối loạn đông máu trong bệnh nặng
Muốn kiểm soát được nguy cơ chảy máu và huyết khối, bác sĩ không chỉ theo dõi sát chỉ số mà quan trọng hơn là 'đọc' đúng bản chất rối loạn đông – cầm máu.
Tại các bệnh viện, không ít người bệnh nhập viện với tình trạng rối loạn đông máu nặng hoặc diễn biến nặng lên trong quá trình điều trị. Muốn kiểm soát được nguy cơ chảy máu và huyết khối, bác sĩ không chỉ theo dõi sát chỉ số mà quan trọng hơn là “đọc” đúng bản chất rối loạn đông – cầm máu trong bối cảnh bệnh chính để can thiệp đúng thời điểm, đúng mục tiêu.
Rối loạn đông máu có thể gặp ở mọi chuyên khoa
Bệnh nhân Đ.T.T.T. (44 tuổi) được chuyển đến Bệnh viện Bạch Mai ngày 20/9/2025 trong tình trạng mê sảng, sốt cao, chảy máu mũi, ho khạc đờm lẫn máu, thiếu máu, xuất huyết dưới da, đại tiện phân đen.
Kết quả thăm khám và xét nghiệm hướng tới suy hô hấp/ viêm phổi/ nhiễm khuẩn huyết, lơ-xê-mi cấp thể M3 và rối loạn đông máu nội mạch rải rác kèm xuất huyết tiêu hóa.
Kíp điều trị vừa hồi sức hô hấp – tuần hoàn, vừa kiểm soát nhiễm trùng, đồng thời điều chỉnh rối loạn đông – cầm máu bằng thuốc và chế phẩm phù hợp.
Ngày 24/9, bệnh nhân được quyết định điều trị đặc hiệu sớm cho bệnh chính – ung thư máu. Diễn biến sau đó ghi nhận xuất huyết tiêu hóa được kiểm soát, các chỉ số đông máu cải thiện, tình trạng nhiễm trùng và tổn thương phổi ổn định dần.
Ca bệnh cho thấy “điểm rơi” quan trọng không chỉ nằm ở liều lượng thuốc chống đông hay số lượng chế phẩm truyền, mà ở việc nhận biết sớm cơ chế rối loạn, xác định căn nguyên chính và đánh trúng các đích theo diễn biến từng giờ.
BSCKII Bùi Thị Thu Hương, người trực tiếp điều trị, chia sẻ: “Trong lơ-xê-mi cấp thể M3 cũng như nhiều bối cảnh nặng khác, rối loạn đông – cầm máu thường diễn tiến qua hai pha: Pha tăng đông, rồi nhanh chóng chuyển sang pha giảm đông kèm tiêu sợi huyết.
Điều cốt lõi với thầy thuốc là nắm vững cơ chế và đánh giá đúng xét nghiệm, tình trạng lâm sàng để xác định người bệnh đang ở pha nào; từ đó lựa chọn và điều chỉnh thuốc chống đông là nghệ thuật”. Nghệ thuật này là giá trị, vì có thể cứu sống người bệnh trong gang tấc.

Truyền chế phẩm máu để điều chỉnh rối loạn đông cầm máu cho bệnh nhân T.
Góc nhìn hệ thống - “tấm khiên” phải được chuẩn bị từ trước
Trong thực hành lâm sàng, rối loạn đông – cầm máu xuất hiện ở hầu hết các chuyên khoa: Sản, ngoại, tim mạch, tiêu hóa, chấn thương, hồi sức, truyền nhiễm… và ảnh hưởng trực tiếp đến kết cục điều trị. Trang thiết bị xét nghiệm hiện đại là cần thiết, nhưng chưa đủ để bảo đảm chẩn đoán – điều trị tốt nhất các rối loạn này.
Mấu chốt là người thầy thuốc sử dụng “vũ khí” của mình như thế nào: phát hiện sớm rối loạn, biện luận xét nghiệm trong bối cảnh lâm sàng cụ thể, lựa chọn chế phẩm và thuốc đúng đích, phối hợp nhịp nhàng giữa các kíp.
ThS.BSNT Nguyễn Thị Tuyết Mai, Phụ trách Phòng Đông máu, Trung tâm Huyết học và Truyền máu Bệnh viện Bạch Mai, chuyên gia về đông – cầm máu nhấn mạnh: “Rối loạn đông – cầm máu là một trong những con đường nhanh nhất dẫn tới các biến cố nặng ở người bệnh.
Vì thế, bác sĩ ở mọi chuyên khoa cần theo dõi sát người bệnh, chỉ định xét nghiệm hợp lý, can thiệp kịp thời và cá thể hóa điều trị theo từng bối cảnh cụ thể. Khi làm được như vậy, đông – cầm máu sẽ thực sự trở thành lá chắn an toàn, giúp kiểm soát diễn biến và nâng cao hiệu quả điều trị”.
Ở người bệnh nặng, chỉ số đông – cầm máu thay đổi theo nhiệt độ, tình trạng toan – kiềm, pha loãng sau bù dịch, thiếu canxi và nhiều yếu tố khác.
PGS.TS Nguyễn Tuấn Tùng, Trung tâm Huyết học và Truyền máu Bệnh viện Bạch Mai nhấn mạnh: “Nếu chỉ đợi đủ kết quả rồi mới xử trí, ta có thể bỏ lỡ thời điểm vàng”. Cách làm hiệu quả là thiết kế sẵn một quy trình cho từng “điểm nóng” như khoa cấp cứu, phòng mổ, khoa hồi sức, sản khoa… cho đến tuyến liên lạc “một chạm” giữa lâm sàng – xét nghiệm – ngân hàng máu khi cần.
Những khuyến nghị này được đúc rút từ thực hành tại các trung tâm lớn, nhấn mạnh vai trò của chuẩn bị, phối hợp và ra quyết định sớm. Khi hạ tầng này sẵn sàng, bác sĩ ở bất kỳ chuyên khoa nào cũng có thể đọc đúng “ngôn ngữ” đông máu, quyết định nhanh và chính xác hơn, người bệnh vì thế đi qua giai đoạn khó khăn an toàn hơn, ít truyền không cần thiết hơn, hồi phục sớm hơn.
Trường hợp bệnh nhân Đ.T.T.T. là một minh họa điển hình, nắm vững cơ chế – xác định căn nguyên – can thiệp đúng đích, đúng lúc.
BS Nam Khánh (Trung tâm Huyết học và Truyền máu Bệnh viện Bạch Mai)






























