Phòng, chống chiến lược 'diễn biến hòa bình' trong lĩnh vực lập pháp

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, chiến lược 'diễn biến hòa bình' đang trở thành một trong những thủ đoạn nguy hiểm, tinh vi mà các thế lực thù địch nhắm vào Việt Nam. Đặc biệt, lĩnh vực xây dựng pháp luật - nhất là tại các cơ quan của Quốc hội dễ bị lợi dụng để từng bước tác động, chuyển hóa nền tảng tư tưởng, thể chế chính trị và định hướng phát triển của đất nước.

Vì vậy, nhận diện đúng và kịp thời, đồng thời triển khai hiệu quả các giải pháp phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong lĩnh vực lập pháp là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, cấp thiết hiện nay.

Nhận diện bản chất và thủ đoạn

Chiến lược diễn biến hòa bình là mưu đồ của các thế lực thù địch - đứng đầu là chủ nghĩa đế quốc nhằm sử dụng các biện pháp phi quân sự, chủ yếu về chính trị, tư tưởng, pháp lý, kinh tế, xã hội… để từng bước làm thay đổi chế độ chính trị, thể chế nhà nước, lật đổ chính quyền cách mạng mà không cần chiến tranh vũ trang.

Trên phạm vi toàn cầu, những sự kiện như “cách mạng màu”, “Mùa xuân Ả Rập” đã chứng minh tính nguy hiểm của chiến lược này. Các thế lực thù địch can thiệp thông qua “hỗ trợ dân chủ”, kích động xã hội dân sự, lợi dụng truyền thông, luật pháp quốc tế và các tổ chức phi chính phủ (NGO) để làm mất ổn định chính trị, lật đổ chính quyền hợp pháp.

ĐBQH chuyên trách tại Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại, Thiếu tướng Trần Đức Thuận trao quà cho các hộ nghèo vùng cao tỉnh Nghệ An. Ảnh: H. Phong

ĐBQH chuyên trách tại Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại, Thiếu tướng Trần Đức Thuận trao quà cho các hộ nghèo vùng cao tỉnh Nghệ An. Ảnh: H. Phong

Với Việt Nam - quốc gia có truyền thống cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - diễn biến hòa bình được xác định là hướng tấn công chủ yếu, lâu dài, với mục tiêu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, làm thay đổi bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa…

Các thủ đoạn tập trung, gồm: Tuyên truyền xuyên tạc pháp luật và Hiến pháp, kích động đòi “đa nguyên, đa đảng”, “tam quyền phân lập”, từ đó làm suy yếu nền tảng chính trị của Nhà nước. Tấn công vào lĩnh vực xây dựng pháp luật, lợi dụng các vấn đề về nhân quyền, tôn giáo, tự do ngôn luận để can thiệp vào tiến trình lập pháp, cổ súy các quy định đi ngược lợi ích dân tộc. Chuyển hóa nội bộ, móc nối cán bộ, đại biểu dân cử, chuyên gia, học giả nhằm gieo rắc tư tưởng sai trái, thúc đẩy thay đổi định hướng xây dựng pháp luật theo hướng phi chính trị hóa. Tăng cường sử dụng không gian mạng để tán phát thông tin xấu độc, tạo dư luận xã hội ảo, gây áp lực “từ dưới lên” trong việc sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản pháp luật quan trọng, then chốt.

Mục tiêu cụ thể trong lĩnh vực lập pháp là từng bước “trung tính hóa chính trị” hệ thống pháp luật, làm suy yếu vai trò của Đảng, “mềm hóa” thể chế. Thủ đoạn chính là cài cắm nội dung vào các dự thảo luật thông qua học giả, chuyên gia quốc tế, NGO; tác động qua các chương trình hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn pháp lý, viện trợ; kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ xây dựng pháp luật, đại biểu Quốc hội, đặc biệt trong giới trẻ, giới học thuật, trí thức.

Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng

Nhận thức rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, thời gian qua, lãnh đạo Quốc hội, các tổ chức đảng và cơ quan của Quốc hội đã triển khai nhiều giải pháp đấu tranh phòng, chống có hiệu quả chiến lược diễn biến hòa bình trong công tác lập pháp. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, thời gian tới cần tiếp tục đồng bộ một số giải pháp sau:

Một là, tăng cường giáo dục chính trị, bản lĩnh, ý thức trách nhiệm và tinh thần cảnh giác cách mạng cho đại biểu Quốc hội, chuyên viên, chuyên gia pháp luật. Chủ động đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng và tại các diễn đàn xây dựng luật. Đây là tuyến phòng thủ đầu tiên, bảo đảm “miễn dịch chính trị” cho đội ngũ làm luật.

Hai là, tiếp tục giáo dục, rèn luyện lập trường chính trị, đạo đức, chuyên môn cho cán bộ trong các cơ quan của Quốc hội, đặc biệt người trực tiếp tham mưu, giúp việc về xây dựng pháp luật. Cần xây dựng cơ chế kiểm soát nội dung, kiểm tra lập trường chính trị trong suốt quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật, tránh để kẻ địch lợi dụng sơ hở về nhân sự để “chuyển hóa từ bên trong”.

Ba là, xây dựng hệ thống pháp luật vừa bảo đảm dân chủ, nhân quyền, vừa bảo đảm quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc gia. Tăng cường “nội lực pháp lý” trong soạn thảo, tránh lệ thuộc vào tư vấn, tài trợ bên ngoài. Phải cảnh giác với các “thủ thuật” kỹ thuật trong ngôn ngữ pháp lý mà đối phương có thể lợi dụng, như các khái niệm mơ hồ: “đa nguyên pháp lý”, “tự do không giới hạn”, “quyền lựa chọn thể chế”.

Bốn là, lựa chọn đối tác quốc tế một cách chủ động, tỉnh táo, với giới hạn rõ ràng trong tiếp nhận hỗ trợ lập pháp. Đồng thời, chủ động truyền thông tích cực về quan điểm, chính sách pháp luật Việt Nam trên báo chí, mạng xã hội, diễn đàn quốc tế. Các tổ chức nước ngoài thường tài trợ các chương trình “nâng cao năng lực lập pháp” như một công cụ mềm để can thiệp, kết hợp truyền thông gây sức ép khi nội dung luật không phù hợp “chuẩn phương Tây”.

Để các giải pháp trên đạt hiệu quả, ĐBQH phải là trung tâm định hướng tư tưởng trong thảo luận, xây dựng pháp luật; chủ động phát hiện, phản bác kịp thời quan điểm sai trái, mơ hồ lồng ghép trong dự thảo luật; thể hiện rõ vai trò gương mẫu trong sinh hoạt chính trị, đặc biệt trước các vấn đề phức tạp về nhân quyền, dân chủ, “tam quyền phân lập”.

Đại biểu cần tham gia trực tiếp vào quy trình tuyển chọn, đánh giá cán bộ, cộng tác viên pháp luật; giám sát việc bố trí nhân sự đúng người, đúng việc, đúng định hướng chính trị. Khi tham gia hợp tác quốc tế, phải giữ vững lập trường, không để bị dẫn dắt bởi cách tiếp cận tư bản chủ nghĩa; phát ngôn thận trọng, tránh bị lợi dụng, xuyên tạc chính sách, pháp luật Việt Nam.

Về phía lãnh đạo và chuyên viên các vụ chuyên môn - “hậu cần” kỹ thuật của lập pháp cần thường xuyên được bồi dưỡng lập trường tư tưởng, kiên định nguyên tắc pháp quyền XHCN; xây dựng quy trình lọc thông tin, nhận diện nội dung “chuyển hóa mềm”; rà soát cán bộ theo tiêu chí kép: bản lĩnh chính trị và trình độ chuyên môn; thiết lập cơ chế kiểm soát chéo để “văn bản pháp luật không sơ hở”.

Ngoài ra, cần xây dựng bộ chỉ số, công cụ kỹ thuật đánh giá rủi ro lập pháp về chính trị, quốc phòng, an ninh; phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an trong soạn thảo đạo luật nhạy cảm; thiết lập tiêu chí rõ ràng khi lựa chọn đối tác quốc tế; kiểm soát chặt các khoản tài trợ, tư vấn, đảm bảo không mất quyền kiểm soát nội dung.

Diễn biến hòa bình trong lĩnh vực lập pháp là nguy cơ hiện hữu, tinh vi, không kém phần nguy hiểm so với chiến tranh vũ trang. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và Cách mạng Công nghiệp 4.0, đòi hỏi cơ quan lập pháp, đặc biệt là đội ngũ cán bộ Quốc hội phải luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, nâng cao chuyên môn, ý thức trách nhiệm, để mỗi đạo luật được ban hành không chỉ là cơ sở pháp lý tối cao cho quản lý nhà nước, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, mà còn là bức tường thành vững chắc chống lại mọi âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch đối với Tổ quốc.

ĐBQH chuyên trách tại Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại, Thiếu tướng Trần Đức Thuận

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/phong-chong-chien-luoc-dien-bien-hoa-binh-trong-linh-vuc-lap-phap-10384441.html
Zalo