Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Mai Sơn: Xúc động, tự hào khi tranh Đông Hồ được UNESCO ghi danh
Chiều 9/12/2025, tại Kỳ họp lần thứ 20 của Ủy ban Liên Chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể đang diễn ra tại New Delhi (Ấn Độ), hồ sơ 'Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ' của Việt Nam chính thức được ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Đây là dấu mốc đặc biệt quan trọng, mở ra cơ hội mới cho hành trình bảo tồn, phát huy một di sản độc đáo nhất của quê hương Kinh Bắc.
Ngay sau khi UNESCO thông báo kết quả bỏ phiếu, phóng viên Báo Bắc Ninh đã có cuộc phỏng vấn nhanh với đồng chí Mai Sơn, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh, Trưởng Đoàn công tác của tỉnh Bắc Ninh tham dự kỳ họp của UNESCO diễn ra tại New Delhi (Ấn Độ). Cảm nhận chung là sự xúc động, tự hào khi Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ - di sản độc đáo của quê hương được quốc tế ghi nhận.

Đồng chí Mai Sơn (hàng đầu, thứ 2 từ trái sang) tham dự kỳ họp thứ 20 của Ủy ban Liên Chính phủ Công ước 2003 tại Ấn Độ.
- Thưa đồng chí, cảm xúc và suy nghĩ của đồng chí lúc này thế nào khi Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ vừa được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại?
- Ngay lúc này, cảm xúc lớn nhất của tôi là niềm tự hào khi di sản độc đáo của quê hương Bắc Ninh được cộng đồng quốc tế ghi nhận; đồng thời cũng xác định trách nhiệm khi UNESCO đặt niềm tin vào chúng ta trong việc bảo vệ một di sản đang ở giai đoạn cần hỗ trợ khẩn cấp.
Cá nhân tôi cũng như các thành viên trong đoàn công tác và những người làm công tác văn hóa của tỉnh, sự kiện Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp là một niềm xúc động, tự hào rất lớn. Đây là thành quả của nhiều năm nỗ lực bền bỉ của cấp ủy, chính quyền tỉnh, các cơ quan chuyên môn, các chuyên gia, nhà nghiên cứu và đặc biệt là cộng đồng nghệ nhân làng tranh - những người đã giữ lửa cho di sản trong những giai đoạn khó khăn nhất.

Đồng chí Mai Sơn và đoàn công tác trân trọng tặng tranh Đông Hồ cho Đại sứ Việt Nam tại Ấn Độ.
- Sự kiện UNESCO ghi danh mang lại ý nghĩa như thế nào đối với di sản, đặc biệt là với cộng đồng nghệ nhân, làng nghề và sự phát triển văn hóa, kinh tế của tỉnh Bắc Ninh hiện nay?
- Trước hết, việc ghi danh khẳng định giá trị nổi bật toàn cầu của nghề làm tranh Đông Hồ không chỉ về nghệ thuật, mà còn về tri thức dân gian, bản sắc văn hóa và thông điệp nhân văn mà di sản mang lại.
Thứ hai, UNESCO ghi danh đúng vào thời điểm nghề làm tranh đang đối mặt với nhiều thách thức: Thiếu nghệ nhân kế cận, thị trường thu hẹp, không gian làng nghề chịu tác động mạnh của đô thị hóa... Chính vì vậy, sự ghi nhận này mang tính thúc đẩy và cảnh báo, giúp huy động sự quan tâm mạnh mẽ của Nhà nước, cộng đồng và quốc tế để bảo tồn di sản một cách cấp thiết, bài bản và bền vững hơn.
Quan trọng hơn, đây là cơ hội để chúng ta bảo tồn, phát triển nghề tranh gắn với phát triển du lịch, kinh tế sáng tạo, tạo sinh kế cho người dân và lan tỏa sâu rộng hơn những giá trị tinh túy của văn hóa Việt Nam.
- Trong quá trình thẩm định, các thành viên UNESCO đánh giá ra sao về Hồ sơ Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ của Việt Nam và những giá trị nổi bật nào được ghi nhận, thưa đồng chí?
- Các thành viên trong Ủy ban Liên chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO đều đánh giá rất cao thông tin hồ sơ, sự chuẩn bị kỹ lưỡng, đáp ứng các tiêu chí để ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp.
Các đại biểu quốc tế cũng ghi nhận, di sản Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ đã có hàng trăm năm gắn bó mật thiết với đời sống người dân Việt Nam, nhất là các dịp Tết Nguyên đán, Tết Trung thu cũng như các nghi lễ thờ cúng tổ tiên, thờ thần. Chủ đề của tranh liên quan đến tập tục truyền thống, lịch sử, sinh hoạt đời sống hàng ngày, phong cảnh... Cộng đồng quốc tế cũng đánh giá rất cao giá trị và sự độc đáo của dòng tranh Đông Hồ khi biết rằng toàn bộ quy trình làm tranh được thực hiện thủ công, từ vẽ phác họa trên giấy đến khắc gỗ, in mộc bản từng màu. Đặc biệt là nguyên liệu, chất liệu, màu sắc hoàn toàn lấy trong thiên nhiên như cỏ cây, hoa lá, sò điệp, sỏi son...
Trong hồ sơ cũng thể hiện sự mai một về số nghệ nhân cam kết theo nghề ngày càng giảm do đó đòi hỏi phải bảo vệ khẩn cấp. Việc đề xuất kế hoạch, mục tiêu bảo tồn di sản cũng mang tính khả thi, phù hợp với khuyến nghị quốc tế là phải đặt cộng đồng vào trung tâm.

Tác phẩm "Vinh quy bái tổ".
- Xin đồng chí cho biết quá trình tỉnh Bắc Ninh phối hợp xây dựng và hoàn thiện hồ sơ đề cử trong thời gian qua, nhất là những khó khăn và nỗ lực vượt qua để đáp ứng đầy đủ các tiêu chí khắt khe của UNESCO ?
- Hành trình xây dựng hồ sơ Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ trình UNESCO là một quá trình kéo dài nhiều năm với sự vào cuộc trách nhiệm của tỉnh Bắc Ninh, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các chuyên gia và đặc biệt là cộng đồng nghệ nhân làng tranh.
Về thuận lợi, Nghề làm tranh Đông Hồ là một di sản có giá trị nổi bật, được cộng đồng gìn giữ liên tục qua nhiều thế hệ nên các tư liệu, bản khắc, mẫu tranh và câu chuyện nghề còn khá phong phú. Hơn nữa, tỉnh Bắc Ninh luôn quan tâm, chỉ đạo sâu sát Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong việc chủ động phối hợp với các viện nghiên cứu, trường đại học, chuyên gia hàng đầu để xây dựng hồ sơ, tuân thủ nghiêm theo đúng chuẩn mực của UNESCO. Đặc biệt, cộng đồng nghệ nhân tích cực tham gia, cung cấp tư liệu và đồng hành trong mọi bước thực hiện xây dựng hồ sơ.
Tuy vậy, quá trình xây dựng hồ sơ đề cử cũng gặp không ít khó khăn. Bởi di sản đang trong tình trạng mai một nên việc thống kê nghệ nhân, kiểm kê bản khắc và phục dựng kỹ thuật truyền thống đòi hỏi rất nhiều thời gian, công sức. Hơn nữa, bối cảnh đô thị hóa nhanh khiến việc chứng minh tính liên tục của không gian thực hành nghề cũng là thách thức.
Ngoài ra, UNESCO có yêu cầu khắt khe trong hồ sơ, từ bằng chứng khoa học, video minh chứng đến kế hoạch hành động trước mắt và lâu dài nên sự cần chuẩn bị công phu và phối hợp chặt chẽ giữa nhiều cơ quan, đơn vị. Mặc dù khó khăn song hành trình này đã giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn về giá trị của di sản và củng cố quyết tâm bảo vệ nghề tranh Đông Hồ một cách bền vững, lâu dài.

Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Đăng Chế hướng dẫn du khách in tranh Đông Hồ.
- Sau khi di sản được ghi danh, tỉnh sẽ chỉ đạo triển khai chương trình hành động như thế nào để bảo vệ và phát huy giá trị nghề làm tranh dân gian Đông Hồ trong tình hình mới?
- Ngay sau khi di sản được UNESCO ghi danh, tỉnh Bắc Ninh triển khai Chương trình hành động bảo vệ khẩn cấp Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ theo đúng cam kết quốc tế.
Trước hết, tỉnh sẽ chỉ đạo cơ quan chuyên môn, chính quyền địa phương phối hợp với các đơn vị liên quan củng cố lực lượng nghệ nhân, mở các lớp truyền dạy và đào tạo thế hệ kế cận, bảo đảm nghề có người tiếp nối lâu dài.
Thứ hai, chỉ đạo tập trung bảo tồn không gian thực hành như phục hồi một số hộ làm nghề truyền thống, xây dựng khu trưng bày sáng tác, cải thiện môi trường làng nghề và gắn bảo tồn với hoạt động du lịch văn hóa.
Thứ ba, chỉ đạo Ngành Văn hóa Thể thao và Du lịch phối hợp đơn vị tư vấn để kiểm kê, số hóa để bảo quản hệ thống bản khắc và tư liệu liên quan, hình thành ngân hàng dữ liệu phục vụ nghiên cứu, giáo dục và sáng tạo.
Thứ tư, tăng cường hợp tác quốc tế để nghiên cứu, học tập mô hình hay, mô hình hiệu quả của các quốc gia trên thế giới trong việc bảo tồn, phát huy giá trị và quảng bá di sản tranh dân gian Đông Hồ ra quốc tế.
Cùng với đó, đẩy mạnh truyền thông, xây dựng đa dạng sản phẩm trải nghiệm, kết nối thị trường để người làm nghề có sinh kế bền vững. Quan trọng nhất, mọi hoạt động sẽ được triển khai theo nguyên tắc cộng đồng là chủ thể, cơ quan quản lý là đơn vị hỗ trợ, nhằm bảo đảm di sản được gìn giữ đúng giá trị, hướng đến sự phát triển bền vững.
- Đồng chí đánh giá thế nào về vai trò của cộng đồng, đặc biệt là thế hệ trẻ trong việc gìn giữ và lan tỏa di sản? Tỉnh có định hướng khuyến khích sự tham gia của người dân ra sao?
- Như tôi vừa khẳng định, cộng đồng chính là chủ thể sáng tạo, gìn giữ và lan tỏa giá trị của di sản, do đó mọi chính sách bảo tồn đều phải đặt người dân vào vị trí trung tâm. Trong quá trình xây dựng hồ sơ đề cử UNESCO, chính cộng đồng địa phương, từ các bậc cao niên, gia đình nghệ nhân đến người dân khu phố Đông Khê đều tích cực tham gia cung cấp tư liệu, chia sẻ kỹ thuật, trao đổi về những khó khăn và đề xuất giải pháp bảo tồn nghề làm tranh dân gian Đông Hồ. Đó là minh chứng rõ nét khẳng định tinh thần chung sức, đồng lòng của cộng đồng địa phương trong gìn giữ di sản.
Tỉnh sẽ chỉ đạo triển khai nhiều giải pháp đồng bộ để cộng đồng có điều kiện tham gia bảo tồn di sản như: Phục hồi chợ tranh Tết, tái hiện không gian văn hóa truyền thống; tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông, lan tỏa giá trị và tính ứng dụng của tranh Đông Hồ trong đời sống đương đại; tạo điều kiện để nghệ nhân tham gia các triển lãm, sự kiện văn hóa du lịch trong và ngoài nước; bảo đảm nguồn nguyên liệu tự nhiên, hỗ trợ nghệ nhân mua vỏ sò điệp, mở rộng thị trường, đẩy mạnh trưng bày, quảng bá, tiêu thụ sản phẩm; khuyến khích đổi mới sáng tạo, đa dạng hóa mẫu mã gắn với thị hiếu mới...

Tranh Đông Hồ được ứng dụng trong thiết kế sân khấu.
Xác định thế hệ trẻ giữ vai trò quan trọng bởi chính họ là lực lượng kế cận làm nghề nên sẽ tăng cường giáo dục di sản trong nhà trường và tổ chức các hoạt động trải nghiệm, học tập ngoại khóa cho học sinh tại làng tranh Đông Hồ; nghiên cứu ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích người trẻ tham gia sáng tạo, thiết kế mẫu sản phẩm mới, ứng dụng tranh vào sản phẩm văn hóa, du lịch...
Khi người dân thực sự trở thành chủ thể, khi thế hệ trẻ ý thức trách nhiệm của mình đối với di sản thì tranh dân gian Đông Hồ sẽ được bảo vệ lâu dài và có sức sống bền vững trong đời sống đương đại.
- Trân trọng cảm ơn đồng chí về những chia sẻ sâu sắc, cập nhật!


































