Phổ biến ở phương Tây nhưng vì sao quảng trường lại vắng bóng tại các đô thị cổ ở Việt Nam
Nếu như đô thị phương Tây luôn có quảng trường làm trung tâm tương tác cộng đồng, thì đô thị cổ Việt Nam – từ kinh thành Thăng Long, Phú Xuân (Huế) đến các phố thị như Hội An, Phố Hiến – lại hoàn toàn không có hình thức quảng trường này...
Trong dòng chảy lịch sử đô thị nhân loại, quảng trường thường được coi là biểu tượng của văn minh đô thị phương Tây. Đó là nơi tập hợp đông đảo người dân, nơi diễn ra những sự kiện chính trị, tôn giáo, thương mại, cũng là không gian biểu trưng quyền lực và tinh thần công cộng. Từ quảng trường Agora của Hy Lạp, Forum La Mã, đến những piazza rực rỡ ở Ý hay quảng trường nhà thờ ở Pháp, mỗi đô thị phương Tây đều có một không gian trung tâm mở rộng cho cộng đồng.
Thế nhưng, khi nhìn về phương Đông, đặc biệt là trong các đô thị cổ của Việt Nam, hình thức quảng trường ấy lại không xuất hiện. Thay vào đó, đời sống cộng đồng gắn liền với sân đình, phố chợ, hồ nước hay bến sông – những không gian mang dấu ấn làng xã và văn hóa nông nghiệp. Sự khác biệt này này không chỉ là một hiện tượng kiến trúc – quy hoạch, mà còn phản ánh đặc trưng sâu xa trong nền tảng xã hội, chính trị và văn hóa của hai vùng văn minh.
Quảng trường là không gian đặc trưng đô thị phương Tây
Ở Hy Lạp cổ đại, agora không chỉ là nơi họp chợ mà còn là chốn người dân bàn luận chính sự, nơi tinh thần dân chủ nảy nở. Ở La Mã, forum là trung tâm thành phố, tập trung đền thờ, công trình công quyền và hoạt động thương mại, vừa thiêng liêng vừa trần tục.
Thời Trung cổ, châu Âu lại hình thành hai loại quảng trường chủ đạo: quảng trường chợ (market square) và quảng trường nhà thờ (cathedral square). Nơi đây diễn ra giao thương tấp nập, đồng thời cũng là chỗ tụ họp dân chúng trong các sự kiện lớn.
Sang thời Phục Hưng và cận đại, quảng trường tiếp tục trở thành biểu tượng quyền lực và thẩm mỹ: Piazza San Marco ở Venice, Piazza del Campo ở Siena (Ý), hay Place de la Concorde ở Paris (Pháp).
Tựu trung, quảng trường phương Tây là không gian tổng hợp: thương mại – chính trị – văn hóa – tôn giáo – xã hội. Nó phản ánh tinh thần công dân, đề cao tính cộng đồng đô thị, và trở thành nơi mọi người bình đẳng hiện diện trong không gian chung.

Quảng trường Piazza San Marco ở Venice. Ảnh: Internet

Mặt bằng quảng trường Piazza San Marco ở Venice. Ảnh: Google
Đô thị cổ Việt Nam không có quảng trường
Nếu như đô thị phương Tây luôn có quảng trường làm trung tâm tương tác cộng đồng, thì đô thị cổ Việt Nam – từ kinh thành Thăng Long, Phú Xuân (Huế) đến các phố thị như Hội An, Phố Hiến – lại hoàn toàn không có hình thức quảng trường này.
Các sinh hoạt thương mại, chính trị, văn hóa, tôn giáo, xã hội được phân tách riêng biệt và có không gian đặc thù phù hợp cho những chức năng khác nhau.
Trong kinh thành phong kiến, Thăng Long và Huế được quy hoạch theo mô hình cung đình phương Đông, lấy trục nghi lễ và hoàng cung làm trung tâm. Các sân rộng trong hoàng thành (như sân Điện Kính Thiên ở Thăng Long hay sân Ngọ Môn – Điện Thái Hòa ở Huế) chỉ dành cho chính sự, tuyệt nhiên không phải không gian công cộng. Khác với quảng trường phương Tây – mở cho toàn dân – các sân này mang tính nghi lễ, khẳng định uy quyền của vương triều.
Trong phố thị, Kẻ Chợ – Thăng Long, Hội An, Phố Hiến đều hình thành từ bến sông, chợ búa, phố nghề. Ở đây, trung tâm không phải quảng trường mà là phố chợ, bến cảng, phố buôn bán. Người dân tụ họp ở chợ Đồng Xuân, ở bến Hội An, chứ không có một khoảng trống trung tâm để cùng sinh hoạt chính trị – xã hội như ở châu Âu.
Còn trong làng xã, làng Việt lại có một “quảng trường riêng” – sân đình. Đây là nơi dân làng họp bàn công việc, xử kiện, tổ chức hội hè. Sân đình chính là không gian cộng đồng quan trọng nhất, nhưng nó chỉ dừng ở quy mô làng xã, không mở rộng lên cấp đô thị. Ngoài ra, hồ nước, giếng làng, sân chùa, bãi đất trống trước đền cũng đóng vai trò tụ họp, nhưng đều gắn với tín ngưỡng hoặc đời sống nông thôn.

Hoàng Thành Huế nơi diễn ra những sự kiện chung của quốc gia trong vòng Thành tách rời khu thị dân. Ảnh: Bonboncar

Phố cổ Hội An bên bờ sông Hoài. Ảnh: Báo và phát thanh, truyền hình Đà Nẵng

Khu phố cổ Hà Nội, với mạng lưới các phố hàng là nơi sinh sống, làm việc, giao thương, các đình, đền thành hoàng của phường nghề là nơi diễn ra các công việc chung của cộng đồng. Ảnh: Ban Quản lý Phố cổ
Đông – Tây khác biệt
Thứ nhất, về nền tảng xã hội, đô thị phương Tây hình thành dựa trên xã hội công dân – nơi thị dân có vai trò rõ rệt trong chính trị, thương mại, đời sống công cộng. Quảng trường trở thành chỗ để họ hiện diện. Trong khi đó, xã hội Việt Nam dựa trên làng xã nông nghiệp, tính cộng đồng gắn với làng chứ không phải thành phố.
Thứ hai, về chính trị và quyền lực, ở phương Tây, quảng trường là nơi nhân dân biểu đạt ý chí, chứng kiến sự kiện chính trị. Ở phương Đông quyền lực tập trung trong vào một vương triều, nên sân nghi lễ chỉ dành cho triều đình, không mở cho dân chúng.
Thứ ba, về văn hóa tín ngưỡng, quảng trường tôn giáo phương Tây thường gắn với nhà thờ lớn, phản ánh ảnh hưởng sâu sắc của Thiên Chúa giáo. Việt Nam lại gắn đời sống cộng đồng với đình, chùa, đền, phản ánh tín ngưỡng dân gian và mối liên hệ với tự nhiên.
Cuối cùng, về cấu trúc đô thị, đô thị Việt Nam thường phát triển tự phát từ chợ – bến – làng nghề, theo tuyến đường hoặc sông nước, chứ không theo trục quảng trường – phố tỏa nan quạt như ở châu Âu.
Quảng trường, một biểu tượng rực rỡ của đô thị phương Tây, đã không hiện diện trong các đô thị cổ Việt Nam. Thay vào đó, sân đình, phố chợ, hồ nước, bến sông đã trở thành trung tâm của đời sống cộng đồng. Sự khác biệt này không phải là sự thiếu hụt, mà phản ánh bản sắc riêng: một xã hội nông nghiệp, làng xã bền chặt, đời sống tín ngưỡng dân gian gần gũi.
Nếu quảng trường phương Tây nhấn mạnh tính công dân và chính trị đô thị, thì không gian công cộng của Việt Nam lại đề cao tính cộng đồng làng xã và sự gắn bó với thiên nhiên.

Không gian công cộng gắn liền với thiên nhiên trong trẻo của Hồ Gươm. Ảnh: Kiến Việt
Chính trong sự khác biệt ấy, ta thấy được hai lối đi song song của văn minh nhân loại: một bên là tinh thần đô thị – công dân của phương Tây, một bên là tính cộng đồng – làng xã của phương Đông. Cả hai đều cho thấy nhu cầu muôn thuở của con người: cần không gian chung rộng rãi để gặp gỡ, chia sẻ, gắn kết, nhưng hình thức khác nhau phù hợp với văn hóa của mỗi cộng đồng.
Trong quá trình phát triển đô thị hiện đại, sự giao thoa và tiếp biến văn hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Hình thức quảng trường, vốn là đặc trưng của đô thị phương Tây, đã được du nhập vào Việt Nam với nhiều biến đổi.
Tuy vậy, không thể mặc định mô hình quảng trường phương Tây đặt vào mọi vị trí của đô thị Việt Nam và xem đó như một hướng phát triển duy nhất. Nếu không được cân nhắc kỹ lưỡng, quảng trường có thể trở thành khoảng trống khô cứng, lãng phí, thậm chí làm đứt gãy mạch không gian đặc trưng vốn gắn bó mật thiết với thiên nhiên và văn hóa trong truyền thống không gian đô thị Việt.
KTS. Trần Tuấn (Nhóm nghiên cứu không gian mặt nước Hà nội - HWSUD)