Phát triển nguồn nhân lực số đem lại nhiều lợi ích trong thời đại số
Việc xây dựng và triển khai Chương trình phát triển nguồn nhân lực số, trang bị kỹ năng số toàn diện cho người lao động đem lại nhiều lợi ích.

Sinh viên Học viện Ngân hàng trong Cuộc thi tìm hiểu về Nghị quyết 57-NQ/TW.
Phát triển nguồn nhân lực số
TS Hoàng Văn Thành - Trưởng Bộ môn Luật Kinh tế, Khoa Luật (Học viện Ngân hàng) cho rằng, chủ trương xây dựng và triển khai Chương trình phát triển nguồn nhân lực số nhằm trang bị kỹ năng số toàn diện cho người lao động có ý nghĩa như một cấu phần hạ tầng mềm của tăng trưởng, vì nó nối mạch các định hướng vĩ mô đã được Nhà nước ban hành với năng lực tác nghiệp có thể đo lường ngay tại nơi làm việc.
Trước hết là Chương trình chuyển đổi số quốc gia theo Quyết định 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020, Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số theo Quyết định 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022, và Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số theo Quyết định 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021. Qua đó, hình thành khuôn khổ thể chế nhất quán để chuyển dịch mô hình tăng trưởng từ dựa vào vốn và lao động giá rẻ sang dựa vào tri thức, dữ liệu, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Ở tầng vi mô, chương trình đưa kỹ năng số từ vị thế kỹ năng bổ trợ lên vị thế điều kiện hành nghề gắn với trách nhiệm pháp lý của tổ chức và cá nhân, đặc biệt sau khi Nghị định 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân có hiệu lực, đòi hỏi lực lượng lao động trong mọi ngành nghề phải nắm vững phân loại dữ liệu, xử lý dữ liệu nhạy cảm, đánh giá tác động xử lý dữ liệu và ứng phó sự cố, để doanh nghiệp có thể xây dựng lòng tin dữ liệu với khách hàng và đối tác.

TS Hoàng Văn Thành - Trưởng Bộ môn Luật Kinh tế thuộc Khoa Luật, Học viện Ngân hàng.
Theo TS Hoàng Văn Thành, ở tầng trung mô, khi quy trình nội bộ chuyển từ số hóa rời rạc sang vận hành dựa trên dữ liệu theo thời gian thực với tự động hóa, phân tích và kiểm soát rủi ro tích hợp, doanh nghiệp sẽ nhận thấy cải thiện năng suất ở cấp nhóm và cấp dây chuyền chứ không chỉ ở khâu đơn lẻ.
Ở tầng vĩ mô, chương trình tạo tác động bao trùm nhờ cơ chế đưa kỹ năng đến nơi người lao động đang ở thông qua mạng lưới Tổ công nghệ số cộng đồng được Bộ Thông tin và Truyền thông (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) hướng dẫn từ năm 2022 và hiện đã phủ khắp cả nước. Điều này đóng vai trò cánh tay nối dài của hệ thống chuyển đổi số từ tỉnh đến cơ sở, qua đó biến chính sách thành thay đổi hành vi ở quy mô hàng triệu hộ gia đình, cơ sở sản xuất nhỏ và khu vực phi chính thức.
Để chủ trương đi vào cuộc sống

TS Hoàng Văn Thành và các em sinh viên Học viện Ngân hàng.
Từ thực tế, TS Hoàng Văn Thành đưa ra một số đề xuất cụ thể:
Thứ nhất, cần ban hành Khung kỹ năng số quốc gia hai tầng tương thích quốc tế để khắc phục tình trạng mỗi nơi một chuẩn và khó đối sánh kết quả đào tạo. Theo đó, tầng phổ quát cho mọi công dân – người lao động quy chiếu DigComp của Ủy ban Châu Âu với cấu trúc 5 lĩnh vực và 21 năng lực, kèm các mức thành thạo và ví dụ hành vi, còn tầng nghề nghiệp dành cho vai trò chuyên sâu quy chiếu SFIA 9 công bố tháng 10/2024 để mô tả kỹ năng, mức độ và phạm vi trách nhiệm theo vị trí việc làm trong các miền dữ liệu, an ninh mạng, hạ tầng, nền tảng và sản phẩm số, đồng thời liên thông khung này với khung trình độ quốc gia để công nhận tích lũy học tập theo mô đun và chuyển đổi sang văn bằng dài hạn khi đáp ứng điều kiện.
Thứ hai, khung kỹ năng cần được vận hành bằng hệ sinh thái vi-chứng chỉ có kiểm định chất lượng độc lập, công bố công khai danh mục mô đun quốc gia, ma trận đối sánh mô đun – nghề – cấp độ và lịch thi cấp chứng chỉ định kỳ. Nhờ đó, người lao động có thể học các mô đun 4–12 tuần gắn trực tiếp với tiêu chuẩn năng lực và tín chỉ tích lũy; còn doanh nghiệp có quy chuẩn chung để tuyển dụng và đánh giá năng lực theo chuẩn nghề quốc tế mà không phải thiết kế lại từ đầu.
Thứ ba, trên phương diện tài chính, nên thí điểm cơ chế đồng chi trả theo mô hình Skills Development Levy – Skills Development Fund của Singapore, tức là nhà tuyển dụng nộp một khoản đóng góp rất nhỏ theo quỹ lương theo quy định của Luật SDL 1979 (Skills Development Levy Act 1979), số tiền này được nộp qua cơ quan CPF cho SkillsFuture Singapore và trở thành nguồn đồng tài trợ cho các khóa học đạt chuẩn, với công thức tính hiện hành 0,25% tiền lương tháng, tối thiểu 2 đô la Singapore và tối đa 11,25 đô la Singapore mỗi lao động, cách thiết kế này biến đào tạo thành quyết định kinh doanh có hỗ trợ tài chính chứ không phải gánh nặng chi phí, đồng thời tạo nguồn bền vững cho thị trường đào tạo lại và nâng cấp kỹ năng.

TS Hoàng Văn Thành có chuyên môn sâu về bộ môn Luật Kinh tế.
Thứ tư, để nối đào tạo với việc làm một cách thực chất, nên triển khai hợp phần place-and-train theo kinh nghiệm TechSkills Accelerator của IMDA Singapore, trong đó cơ sở đào tạo và doanh nghiệp đồng thiết kế học phần – tiêu chí đầu ra, tuyển học viên có tiềm năng, tổ chức đào tạo tại chỗ gắn với dự án thực, đánh giá theo năng lực thực thi và chia sẻ chi phí theo kết quả, tập trung trước vào các vai trò dữ liệu, AI, an ninh mạng, vận hành nền tảng và sản phẩm số nơi nhu cầu hiện hữu, bởi đây là mô hình đã chứng minh khả năng dịch chuyển tuyển dụng từ bằng cấp sang kỹ năng và rút ngắn thời gian đưa người học vào vị trí việc làm.
Thứ năm, coi an toàn dữ liệu là kỹ năng bắt buộc nơi làm việc bằng cách lồng ghép các mô đun tối thiểu về quyền và nghĩa vụ dữ liệu, phân loại dữ liệu cá nhân, xử lý dữ liệu nhạy cảm, đánh giá tác động xử lý dữ liệu và ứng phó sự cố vào tầng phổ quát, còn ở tầng chuyên sâu thì bắt buộc các học phần về quản trị dữ liệu theo vòng đời, bảo mật và quyền riêng tư phù hợp Nghị định 13/2023/NĐ-CP kèm theo ngân hàng tình huống để người học luyện năng lực xử lý trong bối cảnh thật.
Thứ sáu, thiết lập cơ chế điều phối liên bộ do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp Bộ GD&ĐT, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính cùng các hiệp hội nghề nghiệp, công bố bộ chỉ số kết quả theo quý và theo năm để xã hội giám sát và để ngân sách gắn với hiệu quả, gồm tỷ lệ lao động đạt chuẩn kỹ năng cơ bản theo khung quốc gia, số vi-chứng chỉ cấp mới theo nhóm kỹ năng ưu tiên, tỷ lệ doanh nghiệp tham gia đồng chi trả, tỷ lệ học viên được tuyển dụng hoặc giữ lại sau 6–12 tháng theo hợp phần place-and-train, cùng tỷ lệ tổ chức hoàn thành mô đun bắt buộc về bảo vệ dữ liệu, đồng thời tận dụng mạng lưới Tổ công nghệ số cộng đồng làm kênh cuối cùng đưa học liệu và kỳ thi trực tuyến đến tận thôn bản và khu công nghiệp.
Nếu được thiết kế theo các trục trên, Chương trình phát triển nguồn nhân lực số sẽ không chỉ “đúng hướng” với các quyết định 749, 411 và 942 mà còn được cụ thể hóa bằng những công cụ quản trị có thật, đo được và so sánh được, tạo động lực để doanh nghiệp đầu tư vào con người, bảo đảm người lao động có kỹ năng số an toàn và hiệu quả, đồng thời chuyển hóa mục tiêu kinh tế số và xã hội số thành năng suất, thu nhập và cơ hội nghề nghiệp cụ thể trong giai đoạn tới.






























