Phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ là một yêu cầu cấp bách
Cần gia tăng mạnh mẽ nhân lực khoa học, công nghệ khi số lượng người tham gia hoạt động nghiên cứu và phát triển hiện còn thấp.
Theo lãnh đạo một số cơ sở giáo dục đại học, viện nghiên cứu, trong giai đoạn đất nước đang bước vào kỷ nguyên phát triển mới, nguồn nhân lực khoa học, công nghệ là yếu tố đặc biệt quan trọng trong việc tạo ra sự phát triển đột phá về kinh tế - xã hội. Đồng thời, điều này cũng đặt ra những yêu cầu cấp thiết đối với chiến lược phát triển đội ngũ nhân lực về khoa học, công nghệ.
Tăng số lượng và chất lượng nhân lực nghiên cứu khoa học là yêu cầu cấp bách
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Văn Dũng - Hiệu trưởng Trường Đại học Hồng Đức cho rằng, trước các yêu cầu của chuyển đổi số, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và sự bùng nổ của trí tuệ nhân tạo, nhu cầu về nguồn nhân lực khoa học, công nghệ phải tăng cả về quy mô, cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực, phân bổ vùng miền và đạt yêu cầu cả về chất lượng.
Tuy nhiên, theo thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ, hiện cả nước có 167.746 người tham gia hoạt động nghiên cứu và phát triển. Trong đó, số cán bộ nghiên cứu tương đương toàn thời gian FTE (Full Time Equivalent) của Việt Nam có 72.991 người. Trung bình 7,6 người nghiên cứu FTE trên 1 vạn dân. [1] Điều này cho thấy, nguồn nhân lực về khoa học, công nghệ của nước ta hiện nay còn chiếm tỷ lệ thấp.
Ngoài ra, nhân lực khoa học, công nghệ chủ yếu tập trung ở các thành phố, khu đô thị. Trong khi đó, nhân lực ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo còn hạn chế dẫn tới việc phân bổ nhân lực không đồng đều.
Do đó, trước mục tiêu đến năm 2030 nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo đạt 12 người trên một vạn dân, số lượng nhân lực về khoa học, công nghệ của đất nước cần gia tăng mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới.
Đồng thời, cần hình thành đội ngũ chuyên gia đạt chuẩn quốc tế, có năng lực nghiên cứu và khả năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh. Mặt khác, nâng cao chất lượng đội ngũ chuyên gia đầu ngành, chuyên gia ở các ngành mũi nhọn, ngành kinh tế trọng điểm, các nhóm nghiên cứu mạnh, nhóm nghiên cứu liên ngành.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Văn Dũng - Hiệu trưởng Trường Đại học Hồng Đức. Ảnh: NVCC.
Đồng ý kiến với quan điểm trên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Trung Cang - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kiên Giang bày tỏ, phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ là một yêu cầu cấp bách và mang tính chiến lược đối với Việt Nam. Điều này đặc biệt quan trọng khi các lĩnh vực trọng yếu về khoa học, công nghệ như: chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học,… đều đang rất cần nhân lực nghiên cứu và phát triển, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao.
Để hiện thực hóa mục tiêu có 12 người làm nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trên một vạn dân theo Nghị quyết 57, Việt Nam cần có một chiến lược mang tính đồng bộ và toàn diện. Trong đó, việc tăng cường số lượng nhân lực khoa học, công nghệ đóng vai trò quan trọng, nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng quy mô nghiên cứu và ứng dụng công nghệ.
Song, chúng ta cần tập trung vào việc xây dựng một đội ngũ nhân lực khoa học, công nghệ có chất lượng cao và coi đây là nền tảng cốt lõi cho mọi sự phát triển. Từ đó, nâng cao năng lực của đội ngũ này, giúp họ có đủ khả năng để thực hiện nghiên cứu chuyên sâu, đưa các phát minh vào ứng dụng thực tế (công nghệ hóa) và tạo ra những đổi mới sáng tạo tương xứng với chuẩn mực quốc tế.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Trung Cang – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kiên Giang. Ảnh: NVCC.
Còn theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ca - Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên, Việt Nam đang ở giai đoạn khởi đầu trong việc xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.
Do đó, chìa khóa để đến năm 2030 đạt mục tiêu nhân lực theo Nghị quyết 57 không chỉ cần tăng về số lượng, mà còn phải nâng cao chất lượng đào tạo trong và ngoài nước. Đồng thời, thúc đẩy cơ chế thu hút nhân tài và xây dựng hệ thống liên kết giữa cơ sở nghiên cứu và các ngành kinh tế – xã hội.
Nhằm đóng góp nguồn nhân lực khoa học, công nghệ cho đất nước, góp phần đạt mục tiêu nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo đạt 12 người trên một vạn dân, thầy Ca cho biết, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên đã xây dựng kế hoạch chi tiết.
Cụ thể, nhà trường mở rộng quy mô đào tạo gắn với nhu cầu xã hội. Phát triển các ngành/chuyên ngành mới sát với xu thế thị trường và định hướng đổi mới sáng tạo quốc gia. Tăng cường tuyển sinh trình độ sau đại học, đa dạng hóa hình thức tiếp cận người học thông qua tuyển sinh trực tuyến. Song song với đó, nhà trường tăng các học bổng nghiên cứu, chương trình truyền thông STEM tới học sinh vùng sâu – vùng xa và gắn đào tạo với khởi nghiệp để thu hút sinh viên, đặc biệt là sinh viên có năng lực về khoa học, công nghệ.
Ngoài ra, trường cũng đổi mới chương trình, nâng cao chất lượng đào tạo chuẩn hóa theo chuẩn quốc tế. Trong đó, các học phần sẽ được tái cấu trúc theo hướng tích hợp kỹ năng nghiên cứu, làm việc nhóm, tư duy phản biện và sáng tạo. Một số môn học thí điểm dạy bằng tiếng Anh và ứng dụng chuyển đổi số trong đào tạo.
Đặc biệt, việc đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, tái cấu trúc các nhóm nghiên cứu mạnh và tăng cường hợp tác nghiên cứu quốc tế được trường chú trọng để phát triển nhân lực và chất lượng về khoa học, công nghệ .

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ca - Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên. Ảnh NTCC
Cần phát triển đội ngũ nghiên cứu mạnh, có năng lực công bố quốc tế
Nghị quyết 57 cũng đặt mục tiêu có từ 40 - 50 tổ chức khoa học và công nghệ được xếp hạng khu vực và thế giới vào năm 2030. Theo thầy Bùi Văn Dũng, đây sẽ là dấu mốc quan trọng khẳng định uy tín, vị thế, trình độ và năng lực cạnh tranh khoa học, công nghệ của quốc gia ở khu vực và trên thế giới.
Trên cơ sở đó, Việt Nam sẽ có điều kiện thuận lợi hơn trong việc thu hút các nguồn lực đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, cũng như mời gọi các nhà khoa học xuất sắc trong và ngoài nước đến hợp tác, làm việc. Đây chính là tiền đề để hình thành các trung tâm khoa học công nghệ mạnh, có khả năng tạo ra sản phẩm, công nghệ và dịch vụ mới, đáp ứng yêu cầu của thị trường và có tính cạnh tranh toàn cầu.
Đồng thời, các tổ chức khoa học công nghệ hàng đầu này sẽ đóng vai trò “dẫn dắt” trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, thúc đẩy năng suất, chất lượng và hiệu quả hoạt động trong nhiều ngành kinh tế - kỹ thuật, qua đó góp phần thiết thực vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững đất nước.
Để hiện thực hóa mục tiêu này, các cơ sở giáo dục đại học/ viện nghiên cứu cần thực hiện đồng bộ nhiều nhiệm vụ cấp thiết.
Cụ thể, cần tập trung nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ, phát triển đội ngũ giảng viên và nhà khoa học trình độ cao, thành lập các nhóm nghiên cứu mạnh, nhóm nghiên cứu liên ngành, đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu, nâng cao chất lượng nghiên cứu tạo ra các công trình nghiên cứu có ảnh hưởng lớn.
Mặt khác, có các cơ chế, chính sách thu hút chuyên gia hàng đầu, đặc biệt là cơ chế, chính sách đặc thù thu hút chuyên gia có thành tích trong nghiên cứu khoa học ở các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ cốt lõi, tự động hóa, công nghệ bán dẫn.
Trong khi đó, thầy Nguyễn Xuân Ca cho rằng, việc đạt mục tiêu có 40–50 tổ chức khoa học và công nghệ được xếp hạng khu vực và thế giới vào năm 2030 sẽ mang lại nhiều thuận lợi có tính chiến lược cho nền khoa học, công nghệ của nước ta.
Các tổ chức khoa học, công nghệ này là mô hình kiểu mẫu để chuẩn hóa phương pháp quản trị, kiểm soát chất lượng nghiên cứu và đạo đức học thuật. Về lâu dài, đây là nền tảng quan trọng để xây dựng nền khoa học tự chủ, giảm phụ thuộc vào công nghệ ngoại nhập, từng bước phát triển thành quốc gia sản xuất tri thức, công nghệ lõi và sáng tạo giá trị mới cho nền kinh tế số. Thành công của mục tiêu này cũng sẽ tạo động lực thúc đẩy các trường đại học, viện nghiên cứu vươn ra thế giới một cách bài bản và bền vững.

Cơ sở giáo dục đại học cần tích cực đầu tư có trọng tâm vào các phòng thí nghiệm trọng điểm, phòng học thông minh, thiết bị phân tích hiện đại. Ảnh: website Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên
Thầy Ca cũng nhấn mạnh, các cơ sở giáo dục đại học và viện nghiên cứu giữ vai trò then chốt trong việc nâng cao vị thế khoa học, công nghệ của Việt Nam trên bản đồ khu vực và thế giới. Đây là nơi đào tạo đội ngũ nhân lực chất lượng cao, đồng thời cũng là trung tâm sản sinh tri thức, công bố quốc tế và chuyển giao công nghệ. Để thực hiện sứ mệnh này, các trường đại học, viện nghiên cứu cần tập trung vào 5 nhiệm vụ cấp thiết.
Thứ nhất, phát triển đội ngũ nghiên cứu mạnh, có trình độ tiến sĩ, có năng lực công bố quốc tế và khả năng dẫn dắt nhóm.
Thứ hai, xây dựng các nhóm nghiên cứu mũi nhọn theo hướng liên ngành, tập trung vào những lĩnh vực ưu tiên như AI, vật liệu mới, công nghệ sinh học, chuyển đổi số.
Thứ ba, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tham gia các mạng lưới nghiên cứu, dự án đa phương, và đồng công bố với học giả nước ngoài.
Thứ tư, gắn hoạt động nghiên cứu với nhu cầu thực tiễn và doanh nghiệp, thúc đẩy tự chủ và chuyển giao công nghệ.
Thứ năm, nâng cấp hạ tầng phòng thí nghiệm, trang thiết bị và áp dụng chuyển đổi số trong quản trị khoa học. Khi các trường đại học và viện nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế đó sẽ là lực đẩy mạnh mẽ giúp Việt Nam nâng tầm trong hệ sinh thái tri thức toàn cầu.
Còn theo thầy Nguyễn Trung Cang, đây sẽ là bước đột phá góp phần nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ thông qua việc hội nhập tiêu chuẩn quốc tế trong tổ chức, vận hành và đánh giá kết quả khoa học. Các tổ chức khoa học, công nghệ có mặt trong bảng xếp hạng khu vực và quốc tế không chỉ đảm bảo về năng lực chuyên môn, mà còn về năng lực quản trị, từ đó đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Song, để góp phần nâng cao vị thế của các tổ chức khoa học, công nghệ Việt Nam trên bản đồ khu vực và thế giới, cơ sở giáo dục đại học và viện nghiên cứu cần xác định rõ nhiệm vụ then chốt là nâng cao chất lượng tổ chức khoa học, công nghệ. Đây phải là một mục tiêu chiến lược được đặt lên hàng đầu và cần được cụ thể hóa thành kế hoạch hành động dài hạn, trung hạn và ngắn hạn, với quyết tâm chính trị cao từ cấp lãnh đạo cho đến đội ngũ triển khai.

Ảnh minh họa: Trường Đại học Kiên Giang.
Trước hết, các đơn vị cần chú trọng phát triển năng lực nghiên cứu thông qua việc tăng cường hợp tác quốc tế, đặc biệt là với những viện nghiên cứu và tổ chức khoa học, công nghệ uy tín trên thế giới. Thông qua các chương trình trao đổi học thuật, hợp tác triển khai nhiệm vụ nghiên cứu quốc tế, đưa cán bộ khoa học ra nước ngoài học tập, nghiên cứu, các tổ chức khoa học, công nghệ của Việt Nam sẽ không chỉ tiếp cận được tri thức và công nghệ hiện đại, mà còn nâng cao năng lực nội sinh, xây dựng uy tín học thuật trên phạm vi toàn cầu.
Bên cạnh đó, cần xây dựng và triển khai những chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với đội ngũ nhân lực khoa học, công nghệ. Xây dựng môi trường học thuật khuyến khích sáng tạo, ghi nhận và tôn vinh thành tựu khoa học, tạo điều kiện phát triển nghề nghiệp sẽ góp phần giữ chân và thu hút nhân tài, đặc biệt là các nhà khoa học trẻ có năng lực.
Mặt khác, cần rà soát và đầu tư hoàn thiện cơ sở vật chất, đặc biệt là hệ thống phòng thí nghiệm chuyên sâu nhằm nâng cao chất lượng nghiên cứu, đảm bảo đáp ứng yêu cầu của các nhiệm vụ khoa học công nghệ cấp cao.
Tài liệu tham khảo:
[1] https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/1069802/phat-trien-nhan-luc-khoa-hoc%2C-cong-nghe-viet-nam-trong-boi-canh-chuyen-doi-so.aspx