Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để xây dựng đất nước hùng cường

Sau gần 4 thập kỷ đổi mới, Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên vươn mình mạnh mẽ. Đó không chỉ là hành trình phát triển kinh tế, mà là khát vọng khẳng định tầm vóc dân tộc. Trong kỷ nguyên ấy, con người - với trí tuệ, bản lĩnh và khát vọng vươn lên - chính là sức mạnh đưa đất nước tiến tới tương lai hùng cường.

Vận hội lớn chưa từng có

Trong tham luận gửi tới hội thảo khoa học quốc gia “Đột phá chiến lược về nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh mới” tổ chức ngày 8/10/2025, các chuyên gia cho rằng, thế giới đang bước vào một giai đoạn chuyển mình lịch sử và Việt Nam cũng đang đứng trước một vận hội lớn chưa từng có kể từ thời kỳ đổi mới.

Kỷ nguyên vươn mình đòi hỏi Việt Nam phải chủ động kiến tạo một thế hệ nhân lực mới - không chỉ giỏi chuyên môn mà còn có tư duy độc lập, có năng lực hội nhập toàn cầu và khả năng sáng tạo đột phá.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội cho rằng, những gì đang diễn ra hôm nay không đơn thuần là một chu kỳ tăng trưởng, mà là sự tích tụ của nội lực, sự trỗi dậy của ý chí và khát vọng dân tộc sau nửa thế kỷ hòa bình và gần 4 thập kỷ cải cách. Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên vươn mình, khi dân tộc ta không chỉ đi tìm con đường sinh tồn, mà đang khẳng định quyết tâm vươn lên để trở thành một quốc gia phát triển, có vị thế trên trường quốc tế.

Đây không chỉ là trách nhiệm của ngành giáo dục hay một vài bộ, ngành riêng lẻ mà phải là chiến lược tổng thể của quốc gia, đặt phát triển con người lên hàng đầu trong mọi chính sách phát triển. Đã đến lúc Việt Nam cần chuyển từ tư duy “đào tạo nhân lực để đủ dùng” sang “kiến tạo nhân lực để dẫn dắt”. Từ coi con người là “đối tượng phục vụ của phát triển” sang xác lập con người là “chủ thể của phát triển”. Chỉ khi đó, Việt Nam mới có thể biến khát vọng thành hiện thực, biến lợi thế thành sức mạnh và vươn mình thành quốc gia phát triển trong thế kỷ XXI.

Để hiện thực hóa chiến lược này, cần nhìn rõ các cơ hội và thách thức cụ thể đang đặt ra cho phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh thế giới và trong chính nội tại đất nước.

Về cơ hội, thứ nhất Việt Nam đang có lợi thế “dân số vàng” với gần 69% dân số trong độ tuổi lao động (Tổng cục Thống kê, 2023), là nguồn lực quý giá nếu được đầu tư đúng hướng, dù cửa sổ dân số vàng dự kiến khép lại vào năm 2042.

Thứ hai, làn sóng dịch chuyển đầu tư toàn cầu đang mở ra cơ hội nâng cấp vị thế nhân lực. Việt Nam nổi lên nhờ ổn định chính trị, chi phí cạnh tranh, thu hút nhiều tập đoàn lớn như Samsung, Intel, Foxconn. Song để tiếp nhận được các công đoạn có giá trị gia tăng cao, Việt Nam cần nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, công nghệ và quản trị mang tầm quốc tế.

Thứ ba, chuyển đổi số tạo không gian học tập và làm việc xuyên biên giới. Người Việt có thể học trực tuyến, làm việc từ xa cho doanh nghiệp quốc tế, trở thành “lao động số toàn cầu” nếu được trang bị kỹ năng kịp thời.

Thứ tư, khung chính sách đang chuyển động tích cực khi Chính phủ xác định phát triển nhân lực là đột phá chiến lược, đổi mới giáo dục, gắn đào tạo với doanh nghiệp và địa phương.

Tuy nhiên, Việt Nam cũng đối diện với những thách thức như chất lượng lao động chưa tương xứng; năng suất thấp; thiếu nhân lực kỹ thuật cao; đào tạo còn nặng lý thuyết, thiếu kỹ năng số và sáng tạo; tình trạng “chảy máu chất xám” và bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục vẫn phổ biến.

Theo TS. Nguyễn Sĩ Dũng, để trở thành quốc gia phát triển vào giữa thế kỷ XXI, Việt Nam phải chuyển từ tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ sang phát triển dựa trên tri thức và kỹ năng. Nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao, cần được coi là ưu tiên chiến lược với các giải pháp đồng bộ.

Nhiều ý kiến cho rằng để có nguồn nhân lực chất lượng cao thì nên tăng chi cho giáo dục.

Nhiều ý kiến cho rằng để có nguồn nhân lực chất lượng cao thì nên tăng chi cho giáo dục.

Trước hết, đổi mới căn bản giáo dục và đào tạo theo hướng phát triển năng lực, kỹ năng mềm và kỹ năng số; thúc đẩy chuyển đổi số, xây dựng hệ sinh thái học tập mở, đại học tự chủ gắn với nhu cầu doanh nghiệp và hội nhập quốc tế.

Tiếp theo phát triển hệ sinh thái học tập suốt đời, khuyến khích đào tạo lại và nâng cao kỹ năng thông qua tín chỉ mở, chứng chỉ ngắn hạn và mô hình “vừa học - vừa làm”.

Thứ ba, gắn kết cung - cầu lao động bằng hệ thống dự báo nhân lực quốc gia, hợp tác sâu giữa nhà trường và doanh nghiệp, đảm bảo tỷ lệ việc làm đúng ngành cho sinh viên tốt nghiệp.

Thứ tư, thu hút và giữ chân nhân tài thông qua cải cách đãi ngộ, trả lương theo hiệu quả, phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo, quỹ tài năng trẻ và chính sách mời gọi người giỏi trở về đóng góp.

Cuối cùng, ưu tiên đầu tư và bảo đảm công bằng trong phát triển nhân lực, tăng chi cho giáo dục lên 6% GDP, mở rộng cơ hội học tập cho vùng khó khăn, nhóm yếu thế.

Hoàn thiện thể chế - nền tảng của phát triển bền vững

Trong tham luận của mình, TS. Nguyễn Ngọc Lan, Viện Nghiên cứu châu Á - Thái Bình Dương cho rằng, trước hết cần xây dựng và triển khai Chiến lược quốc gia về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đến năm 2030, tầm nhìn 2045, với các trụ cột chính: Gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực và chiến lược phát triển ngành, vùng, đổi mới mô hình tăng trưởng; Lấy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển xanh làm trung tâm định hướng đào tạo nhân lực, tránh tình trạng đào tạo tràn lan, dàn trải; Phát triển toàn diện từ giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp đến giáo dục đại học, đào tạo lại và đào tạo liên tục, xây dựng hệ sinh thái học tập suốt đời; Chuẩn hóa và quốc tế hóa hệ thống kiểm định, đánh giá kỹ năng nghề, năng lực làm việc và năng lực sáng tạo.

“Chiến lược cần được lồng ghép trong các quy hoạch ngành, quy hoạch vùng và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quốc gia, bảo đảm tính tích hợp và liên thông giữa các cấp chính quyền, giữa Nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp - người học”, TS. Nguyễn Ngọc Lan nhấn mạnh.

Cùng quan điểm này, PGS.TS. Vũ Thanh Sơn, Ban Tổ chức Trung ương cho rằng, việc tiếp tục hoàn chỉnh đồng bộ thể chế và chính sách, bởi đây là yếu tố quyết định hiệu quả của toàn bộ hệ thống phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam. Khi hệ thống thể chế, chính sách được thiết kế theo hướng: “Kiến tạo - đồng bộ - linh hoạt - hiệu quả”, thì sẽ thiết lập động lực phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo ra sự hài hòa giữa các bộ, ngành, địa phương.

Sinh viên Bách khoa Hà Nội tham gia Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học lần thứ 42 năm học 2024-2025

Sinh viên Bách khoa Hà Nội tham gia Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học lần thứ 42 năm học 2024-2025

“Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế, việc điều chỉnh thể chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực cần được xem xét linh hoạt, phản ứng kịp thời với tình thế, xu hướng mới. Thể chế và chính sách là tác nhân xác lập định hướng chiến lược phát triển nhân lực quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển sang kinh tế số.

Thể chế quản lý liên ngành, minh bạch bảo đảm nguồn lực được phân bổ hiệu quả cho giáo dục, đào tạo và sử dụng nhân lực. Cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành giúp triển khai chính sách đồng bộ. Hoàn thiện đồng bộ thể chế và chính sách về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam đến năm 2030 mang lại giá trị cốt lõi trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy phát triển bền vững”, PGS.TS. Vũ Thanh Sơn phân tích.

Minh Thư/VOV.VN

Nguồn VOV: https://vov.vn/chinh-tri/phat-trien-nguon-nhan-luc-chat-luong-cao-de-xay-dung-dat-nuoc-hung-cuong-post1236916.vov