Phát triển ngành khoáng sản: cần cải cách nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp
Với xuất phát điểm khoa học công nghệ trong ngành khoáng sản còn một số hạn chế, việc thu hút đầu tư để phát triển ngành khoáng sản hiện đại cần được xem xét thông qua các chính sách phù hợp. Trong đó, chính sách về nghĩa vụ tài chính đối với ngân sách nhà nước là một khía cạnh cần được quan tâm.

Việc thu hút đầu tư để phát triển ngành khoáng sản hiện đại cần được xem xét thông qua các chính sách phù hợp. Ảnh: TL
Ngành công nghiệp khoáng sản Việt Nam vẫn chủ yếu dừng lại ở mức khai thác, chế biến thô, xuất khẩu khoáng sản hàm lượng thấp. Số lượng doanh nghiệp chế biến sâu, sở hữu công nghệ tiên tiến, tinh chế quặng đạt tầm cỡ quốc tế còn hạn chế. Vì vậy, phát triển ngành công nghiệp khoáng sản tại Việt Nam theo hướng chế biến sâu, làm chủ công nghệ hiện đại, hạn chế tối đa gây ô nhiễm môi trường, đồng thời thu hút đầu tư, là một định hướng được thể hiện xuyên suốt trong nhiều thời kỳ. Gần đây nhất, Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 10-2-2022 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đã nêu ra nhiệm vụ thu hút các dự án đầu tư sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại trong khai thác và chế biến khoáng sản.
Chủ trương phát triển ngành khoáng sản Việt Nam, bao gồm phát triển ngành công nghiệp khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản đất hiếm một cách đồng bộ, hiệu quả và bền vững, cũng được nhấn mạnh tại Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 4-5-2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân (Nghị quyết 68-NQ/TW) và Quyết định 866/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Với xuất phát điểm khoa học công nghệ trong ngành khoáng sản còn một số hạn chế, việc thu hút đầu tư để phát triển ngành khoáng sản hiện đại cần được xem xét thông qua các chính sách phù hợp. Trong đó, chính sách về nghĩa vụ tài chính đối với ngân sách nhà nước là một khía cạnh cần được quan tâm.
“Tiền cấp quyền” và “thuế tài nguyên” trong ngành khoáng sản
Tại Việt Nam, hiện tồn tại song song hai khái niệm là “tiền cấp quyền” và “thuế tài nguyên”. “Tiền cấp quyền” được hiểu là khoản tiền mà các tổ chức, cá nhân phải nộp để được cấp quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên”(1). “Thuế tài nguyên” được hiểu là thuế gián thu, đánh trực tiếp vào sản lượng tài nguyên khai thác được(2).
Cơ sở pháp luật về thuế hiện nay tại Việt Nam xem hai nghĩa vụ tài chính này là khác nhau, không chồng lấn lên nhau. “Tiền cấp quyền” được xác định là khoản thu một lần hoặc định kỳ mà tổ chức hoặc cá nhân phải nộp để có quyền sử dụng tài nguyên thuộc sở hữu nhà nước. “Thuế tài nguyên” là thuế chính thức, đánh vào giá trị tài nguyên khai thác, không phụ thuộc vào việc có được cấp quyền hay không.
Tuy nhiên, trong thực tế, cả hai khoản thu này đều liên quan đến hoạt động khai thác tài nguyên, dẫn đến việc doanh nghiệp phải chịu hai nghĩa vụ tài chính riêng biệt, đó là tiền cấp quyền để được phép khai thác một sản lượng nhất định, và thuế tài nguyên trên sản lượng khai thác thực tế.
Chính sách thuế tài nguyên khoáng sản tại Việt Nam đang bộc lộ một số khía cạnh cần được đánh giá lại về pháp lý và thực tiễn. Các vấn đề như quy đổi sản lượng, mức thuế suất, tiền cấp quyền khai thác, hướng dẫn về giá tính thuế... có thể gây ra những thách thức cho doanh nghiệp và ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành khai khoáng chiến lược.
Như vậy, chẳng hạn, một công ty khai thác đá vôi trả tiền cấp quyền 500 triệu đồng để được cấp phép khai thác một mỏ trong năm năm, với sản lượng là 10.000 tấn. Cùng công ty này sau đó nộp thuế tài nguyên dựa trên sản lượng đá vôi khai thác thực tế (ví dụ: 10.000 tấn x 50.000 đồng/tấn x thuế suất 10% = 50 triệu đồng/năm). Hai khoản thu này đã áp dụng trên cùng hoạt động khai thác, nhưng ở các giai đoạn khác nhau (trước và sau khai thác).
Rất ít quốc gia trên thế giới có quy định về tiền cấp quyền khai thác khoáng sản dựa trên trữ lượng khoáng sản được cấp phép khai thác và phải trả trước khi được cấp phép khai thác. Các quy định tương tự, nếu có, thường được xác định dựa trên sản lượng và doanh thu thực tế, tương đồng với thuế tài nguyên và áp dụng thay cho thuế tài nguyên. Hay nói cụ thể hơn, tiền cấp quyền sẽ không tồn tại song song với thuế tài nguyên. Trong quá trình xây dựng dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản, Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã từng có ý kiến xem xét lại quy định về tiền cấp quyền, nhưng chưa được Bộ Tài chính đồng thuận do các cân nhắc về ngân sách nhà nước.
Nghĩa vụ tài chính đối với doanh nghiệp khai thác khoáng sản
Hiện nay, một doanh nghiệp khai thác khoáng sản phải nộp các loại thuế và phí khác nhau, bao gồm:
Thứ nhất, nhóm thuế: Thuế tài nguyên, thuế xuất khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng.
Thứ hai, nhóm phí và lệ phí: Phí khai thác và sử dụng tài liệu địa chất, khoáng sản; phí điều tra, thăm dò khoáng sản (hoàn trả cho Nhà nước); phí bảo vệ môi trường và phí bảo vệ môi trường đối với nước thải đối với cơ sở khai thác chế biến khoáng sản.
Thứ ba, nhóm khoản nộp ngân sách khác: Tiền ký quỹ phục hồi môi trường, tiền thuê đất, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.
Một cách tổng quan, số lượng nghĩa vụ tài chính lớn này đã và đang ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp khoáng sản và việc thu hút đầu tư.
Cụ thể, đối với loại thuế tài nguyên, quy định của pháp luật Việt Nam tương đối cao nếu so sánh với các nước trên thế giới. Hầu hết các quốc gia hiện nay thu thuế tài nguyên theo tỷ lệ phần trăm doanh thu, chiếm từ 2,5-7,5%/doanh thu. Chẳng hạn như Trung Quốc thu thuế tài nguyên là 6,5% đối với vonfram; Úc, tùy vào tiểu bang, sẽ thu khoảng 2,5% với đồng, 7,5% với quặng kim loại khác; Indonesia thu tối đa 10%; Nam Phi thu từ 0,5-7%... hoặc ấn định một khoản thu cố định trên số quặng nguyên khai khai thác. Ví dụ Ấn Độ thu khoảng 20 rupee (0,23 đô la Mỹ)/tấn quặng WO3 1%; Trung Quốc áp dụng cho từng mỏ cụ thể; hoặc thuế tài nguyên thu theo tỷ lệ phần trăm của lợi nhuận - chẳng hạn Chile 14%, Úc 22,5%.
Như vậy, mức trung bình thuế tài nguyên phổ biến trên thế giới là từ 3-8%/doanh thu, trong đó mức thuế thấp (3%) thường áp dụng cho các loại khoáng sản khai thác số lượng lớn (như đá xây dựng) và mức cao (8%) thường áp dụng cho các loại khoáng sản có giá trị cao (như vàng và kim cương). Theo cách tính hiện nay, mức thu hiện nay tại Việt Nam đang cao hơn thế giới nhiều lần, có thể dao động đến 20-30%/doanh thu, tùy từng loại khoáng sản.
Phương pháp tính thuế tài nguyên
Căn cứ quy định tại điều 2, điều 5 Luật Thuế tài nguyên số 45/2009/QH12; điều 3, điều 4 Nghị định 50/2010/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế tài nguyên (sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 12/2015/NĐ-CP) và điều 5, điều 6 Thông tư 152/2015/TT-BTC hướng dẫn về thuế tài nguyên, thuế tài nguyên được tính như sau:
Thuế tài nguyên phải nộp trong kỳ = Sản lượng tài nguyên tính thuế x Giá tính thuế đơn vị tài nguyên x Thuế suất thuế tài nguyên
Trong phương pháp này, có hai khía cạnh cần được làm rõ hơn liên quan đến “sản lượng tài nguyên tính thuế” và “giá tính thuế đơn vị tài nguyên”:
Đối với sản lượng tài nguyên tính thuế: theo khoản 4 điều 4 Nghị định 12/2015/NĐ-CP, “Giá tính thuế đối với tài nguyên khai thác được xác định ở khâu nào thì sản lượng tính thuế tài nguyên áp dụng tại khâu đó.” Đối với sản phẩm công nghiệp (sản phẩm chế biến sâu, đầu tư dây chuyền, công nghệ hiện đại), quy tắc này có thể được hiểu là sản lượng tính thuế được tính theo sản lượng sản phẩm công nghiệp. Tuy nhiên, trong thực tế, một số cơ quan nhà nước đang tính bằng cách quy đổi về sản phẩm quặng nguyên khai khai thác được để tính thuế, mà chưa tính đến các yếu tố như khấu hao, sai số, khả năng thu hồi, chi phí đầu tư... Điều này có thể dẫn đến việc sản lượng tính thuế được tính cao hơn, đặc biệt đối với các quặng nguyên khai nhiều thành phần, chẳng hạn như đa kim, đất hiếm...
Đối với giá tính thuế đơn vị tài nguyên: Theo quy định tại mục c2 khoản 5.1 điều 6 Thông tư 152/2015/TT-BTC và điểm b khoản 2 điều 9 Thông tư 44/2017/TT-BTC, giá tính thuế tài nguyên của sản phẩm công nghiệp = Giá bán sản phẩm công nghiệp - Chi phí chế biến sản phẩm công nghiệp do ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định. Tuy nhiên, đến nay hầu hết các tỉnh không ban hành giá tính thuế đối với sản phẩm công nghiệp, mà sử dụng giá quặng nguyên khai để tính. Hơn nữa, một số sản phẩm công nghiệp đang có giá tính thuế của quặng sơ khai cao hơn so với giá quặng tinh chế. Điều này dẫn đến thiệt hại cho doanh nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản.
Đối với lĩnh vực đất hiếm, là một lĩnh vực mới với công nghệ chế biến tập trung ở một số quốc gia, quặng đất hiếm là loại quặng chiến lược nhiều thành phần (có thể lên đến 17 thành phần). Sau khi chế biến, quặng đất hiếm sẽ cho ra các loại sản phẩm như ô-xit đất hiếm (Rare Earth Oxides - REO), kim loại đất hiếm (Rare Earth Metals) hoặc hợp chất đất hiếm (Rare Earth Compounds). Cách tính thuế hiện hành sẽ làm tăng nghĩa vụ thuế, ảnh hưởng đến khả năng thu hút đầu tư vào lĩnh vực này.
Đề xuất giải pháp
Chính sách thuế tài nguyên hiện tại, với các đặc điểm về thuế suất và cách tính sản lượng, có thể tạo ra những tác động tài chính đáng kể cho doanh nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực khai thác và chế biến sâu các khoáng sản chiến lược. Điều này có thể ảnh hưởng đến tính cạnh tranh quốc tế và việc thu hút đầu tư, cũng như mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân theo Nghị quyết 68-NQ/TW.
Việc áp thuế trên toàn bộ quặng nguyên khai, bao gồm cả phần chưa thu hồi, là chưa khuyến khích chế biến sâu - một chiến lược quan trọng để nâng cao giá trị gia tăng. So với các quốc gia như Trung Quốc, Chile, Indonesia hay Úc - nơi áp dụng ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp chế biến sâu, chính sách của Việt Nam cần được xem xét để tạo động lực đầu tư vào công nghệ tiên tiến.
Để giải quyết các vấn đề trên, khi xem xét điều chỉnh pháp luật về thuế, Việt Nam có thể xem xét cải cách quy định về thuế tài nguyên theo hướng tiếp cận thông lệ quốc tế, cụ thể:
Thứ nhất, xem xét lại tiền cấp quyền khai thác. Có thể nghiên cứu việc xóa bỏ tiền cấp quyền khai thác riêng biệt hoặc gộp khoản phí này vào thuế tài nguyên để tránh sự chồng lấn về đối tượng thu thuế.
Thứ hai, áp dụng thuế dựa trên giá trị thực tế. Xem xét thu thuế tài nguyên theo tỷ lệ doanh thu (trong khoảng 3-8%) hoặc lợi nhuận cố định, thay vì quy đổi về quặng đơn kim. Điều này sẽ phù hợp với tinh thần khoản 4 điều 4 Nghị định 12/2015/NĐ-CP và điều 6 Thông tư 152/2015/TT-BTC, trong đó nhấn mạnh giá trị tính thuế dựa trên sản phẩm công nghiệp.
Thứ ba, khuyến khích chế biến sâu. Áp dụng các ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ chế biến sâu để nâng cao giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh.
Thứ tư, hoàn thiện tổng thể khung pháp lý. Cần thiết cập nhật các quy định như Thông tư 44/2017/TT-BTC và Nghị định 67/2019/NĐ-CP để đảm bảo tính đồng bộ và phù hợp với thực tiễn, theo tinh thần Nghị quyết 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới
Chính sách thuế tài nguyên khoáng sản tại Việt Nam, dù được xây dựng để quản lý tài nguyên thiên nhiên, đang bộc lộ một số khía cạnh cần được đánh giá lại về pháp lý và thực tiễn. Các vấn đề như quy đổi sản lượng, mức thuế suất, tiền cấp quyền khai thác, hướng dẫn về giá tính thuế... có thể gây ra những thách thức cho doanh nghiệp và ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành khai khoáng chiến lược. Việc cải cách chính sách theo hướng minh bạch, công bằng, và tiệm cận thông lệ quốc tế là cần thiết để thúc đẩy ngành khai khoáng, hỗ trợ kinh tế tư nhân, và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, phù hợp với tinh thần đổi mới của Nghị quyết 66-NQ/TW và Nghị quyết 68-NQ/TW.
(*) Giảng viên khoa Luật kinh tế, trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG TPHCM
(**) Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài Thương nhân Việt Nam VTA
(1) Luật Khoáng sản 2010, Luật Địa chất và Khoáng sản 2024, Nghị địnhh 67/2019/NĐ-CP.
(2) Luật Thuế tài nguyên 2009, Nghị định 12/2015/NĐ-CP, Thông tư 152/2015/TT-BTC.