Phát triển lý luận của Đảng về đối ngoại và hội nhập quốc tế
Công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm thay đổi căn bản, toàn diện cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước.
Dự thảo Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam đã làm rõ yêu cầu tất yếu tiếp tục phát triển nhận thức lý luận của Đảng về đường lối đổi mới trên các lĩnh vực, trong đó có công tác đối ngoại.
Một trong những thành tựu nổi bật của Đảng, Nhà nước ta là sự phát triển nhận thức lý luận về đối ngoại và hội nhập quốc tế. Đây là yêu cầu tất yếu để dẫn dắt thực tiễn, định hình đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế, hình thành nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc Việt Nam.

Ảnh minh họa: baovanhoa.vn
Về đường lối đối ngoại, sự phát triển nhận thức chuyển từ phân biệt cứng nhắc quan hệ bạn-thù sang quan hệ đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, “đối tác và đối tượng”, “hợp tác và đấu tranh”, thực hiện quan điểm “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế” với những nội dung, hình thức, biện pháp linh hoạt, sáng tạo, góp phần phá vỡ thế bị cô lập, bao vây, cấm vận. Đưa quan hệ với các nước và đối tác đi vào ổn định, bền vững, thực chất, hiệu quả và có chiều sâu. Từ đó đã thiết lập, mở rộng và củng cố quan hệ đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện lên tầm cao mới.
Đến nay, Việt Nam có quan hệ với 194 quốc gia; quan hệ từ đối tác toàn diện trở lên với 38 nước, bao gồm tất cả nước lớn và cả 5 Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Đảng ta hiện có quan hệ với 253 chính đảng tại 115 quốc gia trên thế giới.
Về hội nhập quốc tế, Đảng ta luôn chú trọng mối quan hệ giữa giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; sự cần thiết phải tăng cường nội lực để bảo đảm hội nhập thành công, nắm vững hơn những nguyên tắc và vấn đề cơ bản của thông lệ quốc tế.
Đảng ta coi trọng thực hiện chủ trương mở cửa hội nhập, trước là mở cửa hội nhập về kinh tế, sau là hội nhập toàn diện để khơi thông, mở rộng quan hệ với các quốc gia và tổ chức quốc tế. Thông qua kết quả hội nhập về kinh tế, chúng ta đã chuyển từ tiếp nhận, tham gia sang chủ động đóng góp; từ hội nhập sâu rộng sang hội nhập đầy đủ; từ vị thế một quốc gia đi sau sang trạng thái một quốc gia vươn lên, tiên phong vào những lĩnh vực mới để không ngừng củng cố vị thế chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế, bảo đảm an ninh quốc gia, nâng tầm ảnh hưởng của đất nước trên thế giới, góp phần tác động, định hình nội hàm của các sáng kiến phù hợp với lợi ích của ta.
Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã và đang đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, phát huy vai trò tích cực tại nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng như ASEAN, Liên hợp quốc, tiểu vùng Mê Công, APEC, AIPA, IPU, UNESCO... được bạn bè quốc tế tín nhiệm đề cử nhiều trọng trách quốc tế quan trọng trong các cơ chế, diễn đàn đa phương.
Đặc biệt, thông qua hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng đã được mở rộng toàn diện ở nhiều nội dung, nhiều ngành, lĩnh vực. Hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và các nước ngày càng đi vào chiều sâu với nhiều thỏa thuận quốc tế được ký kết, tổ chức rất thành công 2 lần Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam, 22 chương trình giao lưu biên giới; tham gia có trách nhiệm tại các hội nghị, diễn đàn lớn như Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN, Diễn đàn Hương Sơn Bắc Kinh...
Từ năm 2014 đến nay, Việt Nam đã cử hơn 1.100 lượt cán bộ, nhân viên tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc; góp phần khẳng định, đối ngoại quốc phòng là một bộ phận quan trọng của 3 trụ cột đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.
Mục tiêu hàng đầu trong đối ngoại và hội nhập quốc tế là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tăng cường bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy; giải quyết được nhiều vấn đề về biên giới trên bộ và trên biển với các nước có liên quan, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Với Trung Quốc, Việt Nam đã ký Hiệp định biên giới và hoàn thành việc phân giới cắm mốc trên bộ; ký các hiệp định, thỏa thuận về phân định và nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển. Với Lào, hai bên đã hoàn thành dự án tăng dày, tôn tạo hệ thống mốc quốc giới trên thực địa. Với Campuchia, hai bên đã phân giới, cắm mốc được khoảng 84% đường biên giới trên đất liền. Trên biển, Việt Nam đã ký các thỏa thuận song phương về hợp tác giải quyết vùng chồng lấn với Malaysia, Indonesia, Philippines, Thái Lan trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, tạo điều kiện mở rộng và tăng cường hợp tác.
Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước đã tạo cơ hội hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, mang lại hiệu quả tích cực cho thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Công tác thông tin đối ngoại và ngoại giao văn hóa được đổi mới và triển khai hiệu quả, góp phần quảng bá về đất nước, con người Việt Nam; kịp thời đấu tranh, phản bác hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Đến nay, nước ta đã có quan hệ kinh tế thương mại, đầu tư với 224 thị trường tại tất cả châu lục; tham gia hơn 500 hiệp định song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực, thu hút một lượng lớn vốn FDI. Đối ngoại đã góp phần mở rộng và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác với nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế, tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế với nhiều đối tác, góp phần bảo đảm kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh xuất, nhập khẩu, thu hút nhiều nguồn lực mới, đưa Việt Nam vào nhóm 32 nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Có thể khẳng định, qua gần 40 năm đổi mới, Đảng ta có sự phát triển nhận thức lý luận về đối ngoại và hội nhập quốc tế. Đây là tiền đề để đất nước bước vào kỷ nguyên mới, thể hiện mạnh mẽ tính kế thừa, tinh thần hành động, đổi mới, phù hợp với tình hình thực tiễn. Trước bối cảnh mới, để củng cố, tăng cường, phát triển quan hệ của Việt Nam với các quốc gia, tổ chức quốc tế, không ngừng nâng cao uy tín và vị thế quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và phát triển của đất nước, cần tập trung vào những định hướng cụ thể:
Thứ nhất, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo và cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về đối ngoại và hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về cơ hội, thách thức, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ... nhằm thống nhất nhận thức và hành động, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình hội nhập quốc tế.
Thứ hai, phát huy hiệu quả mạng lưới các quan hệ đối tác đã được xác lập nhằm gia tăng tin cậy chính trị, tranh thủ nguồn lực cho phát triển. Giải quyết các bất đồng bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế. Trong đó, hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng cần tiếp tục mở rộng, phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu, trở thành một nội dung quan trọng tạo sức mạnh tổng hợp để thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao tiềm lực và vị thế quốc tế của đất nước.
Thứ ba, chủ động nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược trên cơ sở sự phối hợp giữa các ban, bộ, ngành và giữa 3 trụ cột đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, quản lý tập trung của Nhà nước. Đổi mới nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại. Làm tốt công tác bảo hộ công dân và phát huy tối đa nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài tham gia đóng góp phục vụ phát triển đất nước.
Thứ tư, tiếp tục làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác đối ngoại, nhất là về trình độ lý luận, có chuyên môn, kỹ năng cao, ngang tầm quốc tế. Có khả năng tham gia hòa giải, giải quyết tranh chấp quốc tế, có kỹ năng ngoại giao đa phương, ngoại giao số, ngoại giao công chúng để xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại vừa “hồng”, vừa “chuyên”, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.



























