Phát triển kinh tế xanh: Từ áp lực toàn cầu đến yêu cầu nội tại

Nhìn lại 3 năm sau khi Văn phòng Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) xây dựng báo cáo trình Chính phủ trong đó nhấn mạnh chuyển đổi xanh là một cuộc đua toàn cầu mà Việt Nam bắt buộc phải chủ động bước vào để không bị bỏ lại phía sau, TS. Bùi Thanh Minh, Phó Giám đốc Ban IV cho biết: 'Với tư cách là những người đồng hành cùng doanh nghiệp, chúng tôi rất lạc quan về những thay đổi trong thể chế chính sách'.

Áp lực toàn cầu định hình cuộc chơi

Trong bối cảnh hiện nay, các quốc gia phát triển không chỉ đưa ra hàng rào kỹ thuật mà còn thiết lập tiêu chuẩn xanh như một điều kiện bắt buộc để tham gia chuỗi giá trị cũng như bảo trợ cho phát triển công nghiệp quốc nội. Cơ chế CBAM của EU, dự kiến áp dụng giai đoạn chuyển tiếp từ 2026 sẽ đánh thuế carbon với sản phẩm nhập khẩu có mức độ phát thải cao. Điều này, đồng nghĩa với việc các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như thép, xi măng, nhôm, phân bón, điện… sẽ đối mặt với chi phí gia tăng nếu không giảm phát thải.

“Hiện nay, thay vì toàn cầu hóa là xu hướng khu vực hóa, gắn sản xuất với an ninh kinh tế và an ninh quốc gia”, ông Minh chia sẻ.

Với bối cảnh đó, trong giai đoạn 2022-2025, Việt Nam đã có những bước đi quan trọng. Trước hết là chuyển đổi về thể chế. Hệ thống chính sách về tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, năng lượng tái tạo, thị trường carbon được xây dựng đồng bộ hơn. Các Nghị quyết của Đảng về đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển kinh tế tư nhân, phát triển khoa học công nghệ và hoàn thiện thể chế đã trở thành trụ cột, dẫn dắt định hướng. Mới đây, Quyết định số 21/2025/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định tiêu chí môi trường và việc xác nhận dự án đầu tư thuộc danh mục phân loại xanh đã tạo “danh mục xanh” giúp ngân hàng, doanh nghiệp, cơ quan quản lý có chung một “ngôn ngữ”.

Những cải cách này phát tín hiệu rõ ràng cho doanh nghiệp về hướng đi tất yếu. Nếu như 3 năm trước, nhiều doanh nghiệp còn bỡ ngỡ với khái niệm CBAM hay ESG, thì nay đã chủ động đo đếm phát thải, công bố báo cáo bền vững, đầu tư công nghệ sạch. Nhiều tập đoàn tiên phong như Hòa Phát tận dụng nhiệt dư để tự sản xuất điện, đáp ứng tới 90% nhu cầu năng lượng; hay các doanh nghiệp dệt may, da giày đầu tư hệ thống xử lý nước tuần hoàn, chuyển sang năng lượng mặt trời để giữ vững đơn hàng từ Châu Âu.

Cùng với đó, nhận thức cộng đồng cũng đã tăng lên rõ rệt. Các diễn đàn chuyên môn về chuyển đổi xanh được tổ chức, góp phần lan tỏa thông điệp “kinh tế xanh không còn là lựa chọn mà là yêu cầu bắt buộc”.

Động lực tăng trưởng và lộ trình Net Zero

Nhìn lại từ năm 1986 đến nay, mô hình tăng trưởng của Việt Nam chủ yếu dựa vào thâm dụng lao động và tài nguyên, dẫn đến giá trị gia tăng thấp. Bước nhảy từ nước thu nhập trung bình sang nước thu nhập cao là thách thức “khó hơn rất nhiều” so với từ nghèo lên trung bình. Cùng với đó, quá trình công nghiệp hóa khiến lượng phát thải ngày càng tăng. Việt Nam hiện thuộc nhóm 26 quốc gia phát thải lớn nhất thế giới.

Để phát triển bền vững, Chính phủ đặt mục tiêu đến năm 2045, Việt Nam trở thành quốc gia thu nhập cao và đến 2050 đạt phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) với sự hỗ trợ quốc tế. “Điều quan trọng là phải nhìn thẳng vào thực tế: nếu chỉ dựa vào nội lực, Việt Nam mới cam kết giảm 10% phát thải; với sự hỗ trợ quốc tế, con số mới có thể đạt 25%. Do đó, cần một cơ chế chuyển đổi công bằng, hài hòa giữa các ngành nghề, cấp độ doanh nghiệp và cả giữa các quốc gia”, TS. Bùi Thanh Minh nhận định.

Kinh tế xanh vì thế không chỉ là xu thế toàn cầu mà còn là “chìa khóa kép”: vừa mở ra động lực tăng trưởng mới, vừa giúp Việt Nam tiến gần mục tiêu Net Zero. Theo ông Minh, để hiện thực hóa, cần huy động đồng thời 3 yếu tố: động lực thị trường, nội lực doanh nghiệp và trợ lực chính sách. Thị trường phải tạo nhu cầu thực chất cho sản phẩm, dịch vụ xanh, đồng thời định giá carbon để khuyến khích giảm phát thải. Doanh nghiệp cần nâng cao năng lực đáp ứng tiêu chuẩn ESG, tái cơ cấu ngành nghề, xanh hóa sản xuất và phát triển công nghiệp phụ trợ để tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Nhà nước phải hoàn thiện hệ sinh thái chính sách, từ tài khóa xanh, tín dụng ưu đãi đến việc ban hành định mức phát thải cơ sở.

Đặc biệt, thị trường tín chỉ carbon cần được hoàn thiện sớm, không chỉ dừng ở một “sàn giao dịch”, mà phải có hàng hóa thực sự, cơ chế sở hữu rõ ràng và khung pháp lý hoàn chỉnh. “Nếu chậm trễ, doanh nghiệp Việt sẽ bỏ lỡ cơ hội thương mại hóa nỗ lực giảm phát thải và dòng vốn quốc tế”, ông Minh cảnh báo.

Bên cạnh đó, một trong những giải pháp mang tính “nhảy vọt” được gợi mở là phát triển các cụm ngành công nghiệp sạch ven biển, tận dụng tiềm năng 3.260km bờ biển và nguồn năng lượng gió dồi dào. Các khu công nghiệp sinh thái, khu công nghiệp tuần hoàn sẽ giúp doanh nghiệp tối ưu tài nguyên, tận dụng chất thải làm đầu vào sản xuất, tạo hiệu quả kinh tế và giảm phát thải.

Theo ước tính, mô hình này có thể mang lại 15 tỷ USD giá trị gia tăng và tạo hơn 100.000 việc làm mới đến năm 2030, góp phần thay đổi cục diện tăng trưởng ở các địa phương ven biển, nhất là khi nhiều tỉnh từng phụ thuộc vào khai thác dầu khí đang đối diện nguy cơ suy giảm tăng trưởng.

“Kinh tế xanh không chỉ là một loại hình kinh tế mới mà là động lực tăng trưởng có thể thay đổi cuộc chơi của Việt Nam”, ông Minh nhấn mạnh. Cộng đồng doanh nghiệp cần tận dụng tối đa chính sách nhà nước như một “bệ đỡ” trong giai đoạn hiện nay, đồng thời xây dựng chiến lược dài hạn để biến sức ép xanh hóa thành lợi thế cạnh tranh. Việt Nam đang bước vào giai đoạn quyết định: hoặc chủ động chuyển đổi để bứt phá, hoặc chậm trễ và đối diện nguy cơ tụt hậu. Với nền tảng chính sách ngày càng hoàn thiện, cộng đồng doanh nghiệp năng động và sự đồng hành của quốc tế, kinh tế xanh hoàn toàn có thể trở thành đòn bẩy giúp Việt Nam đạt mục tiêu kép: tăng trưởng nhanh, bền vững và đạt Net Zero vào năm 2050.

Trà Giang

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/phat-trien-kinh-te-xanh-tu-ap-luc-toan-cau-den-yeu-cau-noi-tai-169903.html
Zalo