Phát triển giá trị bản địa hạn chế di cư vùng biên giới

Di cư lao động tại các vùng biên giới đang trở thành một trong những xu thế nhân khẩu học, xã hội đáng chú ý hiện nay.

Không chỉ gắn với lịch sử hình thành quốc gia, dân tộc từ thế kỷ XIX, các dòng di chuyển dân cư ở khu vực biên giới ngày càng chịu tác động sâu sắc của toàn cầu hóa, mở rộng giao thương và sự thay đổi trong quan hệ kinh tế, chính trị giữa các quốc gia. Trong bối cảnh đó, di cư không còn mang tính tự phát mà đã trở thành một phần của chiến lược sinh kế, phản ánh những chuyển động xã hội sâu rộng ở cả nơi đi và nơi đến.

Khu vực đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại thôn Lồ Ồ, xã Đá Bạc (Châu Đức, Bà Rịa - Vũng Tàu). Ảnh: Hoàng Nhị/TTXVN

Khu vực đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại thôn Lồ Ồ, xã Đá Bạc (Châu Đức, Bà Rịa - Vũng Tàu). Ảnh: Hoàng Nhị/TTXVN

Những vấn đề này được đặt ra tại Hội thảo Dân tộc học Quốc gia thường niên năm 2025 với chủ đề “Những vấn đề về di cư và phát triển của các tộc người ở nước ta hiện nay”, do Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam vừa tổ chức tại Hà Nội. Các chuyên gia, các nhà khoa học cho rằng, nếu không có các giải pháp phát triển phù hợp ngay từ vùng có tỉ lệ di cư cao, đặc biệt là khu vực biên giới, di cư có thể làm gia tăng nguy cơ mất cân đối dân số, suy giảm nguồn lực lao động tại chỗ và đặt ra nhiều thách thức về an sinh xã hội, văn hóa và quản trị phát triển bền vững.

Các vùng “đẩy” và “hút” dân đặt ra thách thức xã hội

Phân tích bức tranh di cư của các dân tộc thiểu số hiện nay, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Thị Minh Thi, Viện trưởng Viện Thông tin Khoa học xã hội (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) cho rằng, di cư không chỉ đơn thuần là một hiện tượng nhân khẩu học, mà cần được nhìn nhận như một chiến lược sinh kế gắn với tư duy xã hội, lựa chọn gia đình và sự thích ứng trước những biến đổi kinh tế, xã hội.

So với các nghiên cứu về di cư của người Kinh đã tương đối toàn diện trong nhiều thập kỷ, thì di cư của các dân tộc thiểu số vẫn còn là một lĩnh vực cần tiếp tục làm rõ, đặc biệt về các chiều cạnh giới, học vấn và không gian cư trú. Nghiên cứu của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Thị Minh Thi, sử dụng số liệu điều tra tình hình kinh tế, xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2024, bộ dữ liệu mới nhất hiện nay, cho phép nhận diện rõ hơn xu hướng, quy mô và đặc điểm của các dòng di cư.

Kết quả cho thấy, di cư vì việc làm là lý do quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số người di cư. Tuy nhiên, bên cạnh yếu tố kinh tế, các lý do liên quan đến gia đình, chăm sóc, hôn nhân và tìm kiếm cơ hội sống tốt hơn ngày càng trở nên đa dạng, phản ánh sự thay đổi trong hành vi và động cơ di cư của đồng bào dân tộc thiểu số.

Đáng chú ý, nghiên cứu chỉ ra sự khác biệt rõ rệt về giới trong các dòng di cư. Ở nhiều dân tộc, tỷ lệ phụ nữ di cư cao hơn nam giới, đặc biệt tại các nhóm như Khmer, Vân Kiều, Khơ Mú, Chăm và Tà Ôi. Xu hướng này cho thấy phụ nữ dân tộc thiểu số không còn chỉ di cư theo gia đình hay vì hôn nhân, mà ngày càng trở thành chủ thể tích cực trong các dòng di chuyển lao động và sinh kế.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Thị Minh Thi cho rằng, quá trình di cư phản ánh sự tái cấu trúc vai trò kinh tế của phụ nữ dân tộc thiểu số, cả ở nơi đi lẫn nơi đến. Giáo dục đóng vai trò đặc biệt quan trọng khi học vấn càng cao thì khả năng và chất lượng di cư của phụ nữ càng được cải thiện, mở ra cơ hội tiếp cận việc làm ổn định và vị thế xã hội tốt hơn.

Về không gian cư trú, nghiên cứu xác định rõ các vùng “đẩy” và “hút” dân tộc thiểu số. Một số địa phương như Hà Tĩnh có tỷ suất xuất cư rất cao, cho thấy tình trạng mất dân, đặc biệt là lao động trẻ. Ngược lại, các cực tăng trưởng như Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bắc Ninh hay Quảng Ninh thu hút mạnh dòng di cư, chủ yếu phục vụ nhu cầu lao động công nghiệp và dịch vụ.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Thị Minh Thi, di cư của đồng bào dân tộc thiểu số là một quá trình tái cấu trúc xã hội đa tầng. Di cư vừa mang lại cơ hội cải thiện sinh kế, vừa đặt ra thách thức về thay đổi cấu trúc dân số, nguy cơ già hóa tại vùng xuất cư và áp lực lên hạ tầng, dịch vụ xã hội tại nơi tiếp nhận. Vì vậy, các chính sách phát triển cần nhìn nhận di cư như một hiện tượng tất yếu, đồng thời chủ động điều tiết bằng các giải pháp bền vững ngay từ gốc.

Giữ chân người dân bằng sinh kế bền vững

Từ góc độ nghiên cứu vùng biên giới, Tiến sĩ Nguyễn Công Thảo, Viện Dân tộc học và Tôn giáo học (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) cho rằng, vùng biên giới hiện nay không còn là những đường ranh cố định, mà là các không gian mở, nơi con người, hàng hóa và văn hóa tương tác liên tục. Trong bối cảnh đó, di cư của đồng bào dân tộc thiểu số vùng biên không chỉ hướng sang các quốc gia láng giềng, mà còn dịch chuyển mạnh về các trung tâm kinh tế lớn trong nước.

Theo đó, đồng bào dân tộc thiểu số vùng biên thường phải đối mặt với “thách thức kép” khi di cư. Một mặt, họ xuất phát từ những khu vực có điều kiện kinh tế khó khăn, tỷ lệ nghèo cao. Mặt khác, khi đến các đô thị hoặc vùng công nghiệp, họ cần thời gian dài để thích ứng với môi trường sống mới, mạng lưới xã hội mới và các giá trị văn hóa khác biệt.

Quá trình thích ứng này, nếu thiếu hỗ trợ, dễ dẫn đến nguy cơ xung đột văn hóa, đứt gãy bản sắc và gia tăng tính dễ tổn thương của người di cư. Trong khi đó, yêu cầu vừa giữ gìn bản sắc văn hóa, vừa thích nghi với mô hình lao động công nghiệp đặt ra những bài toán không đơn giản cho cả người dân và nhà quản lý.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Công Thảo, di cư cần được ghi nhận là quyền và là một phần của phát triển. Tuy nhiên, để hạn chế tình trạng di cư mang tính bắt buộc do thiếu sinh kế tại chỗ, việc phát triển kinh tế vùng biên theo hướng bền vững, dựa trên các giá trị bản địa là giải pháp then chốt. Khi người dân có thể sống được, làm chủ sinh kế và nhìn thấy tương lai ngay trên chính mảnh đất quê hương, áp lực di cư sẽ giảm đi một cách tự nhiên.

Từ góc độ quản trị đô thị và chính sách dân tộc, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bế Trung Anh, Ủy viên Thường trực Hội đồng Dân tộc của Quốc hội cho rằng, các khu đô thị hiện nay chưa được chuẩn bị đầy đủ để tiếp nhận một khối lượng di cư quá lớn trong thời gian ngắn. Điều này không chỉ gây áp lực lên hạ tầng, nhà ở, giáo dục và y tế, mà còn đặt ra thách thức về hòa nhập xã hội và quản lý dân cư.

Do đó, nếu không có các chính sách đồng bộ, di cư tự do có thể làm gia tăng bất bình đẳng và phát sinh các vấn đề xã hội mới. Vì vậy, song song với việc bảo đảm quyền di cư, ông Bế Trung Anh cho rằng cần có các chính sách phát triển vùng xuất cư, đặc biệt là vùng biên giới, nhằm tạo việc làm tại chỗ, nâng cao chất lượng dịch vụ công và tăng cường năng lực thích ứng cho người dân.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bế Trung Anh, phát huy giá trị bản địa không chỉ là bảo tồn văn hóa, mà còn là khai thác tri thức bản địa, nông nghiệp đặc thù, du lịch cộng đồng và các mô hình kinh tế phù hợp với điều kiện địa phương. Đây chính là nền tảng để xây dựng sinh kế bền vững, góp phần giữ chân người dân, ổn định dân cư và bảo đảm phát triển hài hòa giữa kinh tế, xã hội và văn hóa ở khu vực biên giới.

Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng, di cư sẽ tiếp tục là một phần tất yếu của phát triển. Tuy nhiên, nếu đầu tư đúng mức cho vùng biên giới, đặt con người làm trung tâm và phát huy các giá trị bản địa, di cư có thể chuyển từ áp lực thành cơ hội, từ thách thức thành động lực thúc đẩy phát triển bền vững và bao trùm.

Lý Thanh Hương (TTXVN)

Nguồn Tin Tức TTXVN: https://baotintuc.vn/xa-hoi/phat-trien-gia-tri-ban-dia-han-che-di-cu-vung-bien-gioi-20251229101512510.htm