Phát huy khát vọng phát triển và tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường
Theo GS.TS Đào Xuân Học, khát vọng phát triển và tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường là những giá trị tinh thần mới được nhấn mạnh và cần được xem là yếu tố then chốt để tạo ra bước nhảy vọt.
Tại Hội thảo “Góp ý dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng” do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức ngày 7/11, Hội Thủy lợi Việt Nam đã có một số ý kiến đóng góp.

GS.TS Đào Xuân Học, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam phát biểu tại Hội thảo “Góp ý dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng” do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức ngày 7/11. (Ảnh Gia Đạt)
Văn hóa, con người - nền tảng và nguồn lực nội sinh
Về phát triển văn hóa, con người, giáo dục, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, Dự thảo đã xác định rõ vai trò nền tảng, động lực của các lĩnh vực này. Để nâng cao năng lực nội sinh và sức cạnh tranh quốc gia, cần nhấn mạnh rõ hơn tính đột phá chiến lược của văn hóa và con người, chuyển từ nhận thức về nền tảng sang nguồn lực nội sinh và động lực mạnh mẽ.
Làm rõ cơ chế để văn hóa thực sự là hệ điều tiết cho sự phát triển nhanh và bền vững, không chỉ là nền tảng. Cần tập trung vào việc thể chế hóa hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam để chúng trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động chính sách và kinh doanh.
Phát huy khát vọng phát triển và tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường. Đây là những giá trị tinh thần mới được nhấn mạnh và cần được xem là yếu tố then chốt để tạo ra bước nhảy vọt, không chỉ là tinh thần yêu nước truyền thống.
Cần nâng tầm công nghiệp văn hóa thành một ngành kinh tế mũi nhọn, tương xứng với tiềm năng, không chỉ là phát triển từng bước. Đề xuất mục tiêu cụ thể hơn về đóng góp của công nghiệp văn hóa vào GDP để thể hiện tính đột phá.
Dự thảo đã xác định Khoa học công nghệ (KH&CN), đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số (CĐS) là động lực chính và là trọng tâm đột phá của tăng trưởng. Cần làm rõ cách thức để chúng thực sự nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Nhấn mạnh sự cần thiết của cơ chế, chính sách vượt trội và cơ chế tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp KH&CN. Đề xuất cơ chế thử nghiệm - thí điểm vượt trội cho các công nghệ mới nổi (AI, Chip bán dẫn, Công nghệ lượng tử...) để rút ngắn khoảng cách với thế giới.
Cần nhấn mạnh giải pháp để doanh nghiệp thực sự là trung tâm của hệ thống ĐMST quốc gia. Cần có các chính sách mạnh mẽ hơn để khu vực tư nhân tin tưởng, sẵn sàng tham gia đầu tư, nghiên cứu, như cơ chế ưu đãi thuế vượt trội cho R&D và đầu tư mạo hiểm vào công nghệ.
Khẳng định kinh tế dữ liệu là trọng tâm của phương thức sản xuất mới. Đề xuất giải pháp cụ thể hơn để quản lý và thúc đẩy phát triển tài sản số, tiền kỹ thuật số lành mạnh và hiệu quả, đồng thời bảo vệ chủ quyền số quốc gia.
Xây dựng nền giáo dục mở, linh hoạt, hội nhập quốc tế
Để bồi dưỡng thế hệ công dân Việt Nam có tri thức, nhân cách và bản lĩnh trong kỷ nguyên mới, nền giáo dục cần được xây dựng theo hướng mở, liên thông, linh hoạt và hiện đại, ngang tầm khu vực và thế giới.
Về nền tảng thể chế và quản trị, Hội Thủy lợi Việt Nam đề xuất một số giải pháp hoàn thiện thể chế theo hướng mở nhằm đảm bảo liên thông thông suốt giữa giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học, đồng thời giữa giáo dục công lập (trụ cột) và ngoài công lập (cấu phần quan trọng) (góp ý cho hoàn thiện đồng bộ hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách).
Tự chủ và trách nhiệm giải trình nhằm tăng cường quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện, trách nhiệm giải trình cho cơ sở giáo dục, đặc biệt là giáo dục nghề nghiệp và đại học, gắn với kiểm soát chặt chẽ đầu ra (góp ý cho Đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục).
Đổi mới tài chính và đầu tư nhằm chuyển đổi cơ chế tài chính từ cấp đầu vào sang cấp đầu ra theo chất lượng và hiệu quả, thu hút mạnh mẽ các nguồn lực xã hội, tránh tình trạng xã hội hóa sai lệch (góp ý cho Đổi mới căn bản cơ chế, chính sách tài chính và đầu tư).
Về nội dung và phương thức đào tạo Công dân kỷ nguyên mới, cần phát triển toàn diện năng lực - phẩm chất nhằm chuyển mạnh sang phát triển toàn diện năng lực, thể lực, và phẩm chất người học. Lồng ghép và chú trọng giáo dục về ý thức dân tộc, trách nhiệm công dân, đạo đức kinh doanh, văn hóa khởi nghiệp sáng tạo.
Đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học. Phổ cập và đưa năng lực số vào chương trình giáo dục phổ thông để trang bị kỹ năng tham gia nền kinh tế số và xã hội số.
Khuyến khích, tạo điều kiện để học sinh, sinh viên và các tầng lớp nhân dân học ngoại ngữ, nhất là 6 ngôn ngữ chính được Liên Hợp Quốc công nhận, tập trung vào ngôn ngữ chính của các nước phát triển, có tầm ảnh hưởng đến nền kinh tế, khoa học công nghệ của thế giới
Tập trung đào tạo nhân lực chất lượng cao theo chuẩn quốc tế trong các ngành công nghiệp, công nghệ chiến lược (Chip bán dẫn, AI...). Phát triển các trường nghề chất lượng cao ngang tầm khu vực và thế giới.
Xây dựng cơ chế, chính sách đặc biệt để phát hiện, thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài, gắn với cơ chế đãi ngộ, tôn vinh phù hợp.
Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về giáo dục, tham gia vào mạng lưới học tập toàn cầu. Đẩy mạnh việc đưa cán bộ, sinh viên đi đào tạo ở nước ngoài và thu hút sinh viên quốc tế đến học tập tại Việt Nam.
Xây dựng xã hội học tập suốt đời, phát triển các mô hình học tập đa dạng, tập trung hỗ trợ các trung tâm học tập cộng đồng, đặc biệt ở vùng khó khăn, biên giới, hải đảo.
Một số giải pháp được đề xuất nêu trên nhằm tạo ra một hệ thống giáo dục năng động, linh hoạt, đáp ứng nhanh với sự thay đổi của công nghệ và thị trường lao động, từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh về nguồn nhân lực cho quốc gia.
































