Phát huy giá trị văn hóa ẩm thực của người Mường
Để lan tỏa giá trị ẩm thực truyền thống, phát triển du lịch cộng đồng bền vững, bà con dân tộc Mường ngoài việc trở thành những 'đại sứ văn hóa', còn nỗ lực đẩy mạnh ứng dụng công nghệ vào hoạt động quảng bá điểm đến, giới thiệu sản phẩm, thay đổi tư duy làm du lịch.
Văn hóa ẩm thực độc đáo
Tại buổi trình diễn, thực hành về trải nghiệm ẩm thực gắn với văn hóa truyền thống dân tộc Mường phục vụ phát triển du lịch cộng đồng, tổ chức tại xã Khả Cửu (Phú Thọ) mới đây, TS. Chử Thị Thu Hà, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội cho biết, ẩm thực của người Mường mang nét đặc trưng mộc mạc, dân dã, gắn bó mật thiết với núi rừng, phản ánh chân thực nền kinh tế nông nghiệp mang tính chất tự cung tự cấp.
Người Mường ăn những gì họ trồng được, bắt được, hái được. Trong sự “tận dụng môi trường tự nhiên” ấy, một nền văn hóa ẩm thực độc đáo đã nảy mầm và bén rễ. “Người Mường chế biến đơn giản, không cầu kỳ, chủ yếu là nướng, luộc, đồ; họ không lạm dụng kỹ thuật hay gia vị để che lấp đi mùi vị gốc, mà tìm cách để làm cho vị tươi ngon, nguyên bản ấy được thăng hoa”, TS. Chử Thị Thu Hà nhận xét.

Mâm cỗ lá tại buổi trình diễn, thực hành “Xây dựng mô hình trải nghiệm văn hóa ẩm thực gắn với văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Mường phục vụ phát triển du lịch cộng đồng bền vững” tại xã Khả Cửu (Phú Thọ). Ảnh: Hồng Phúc
Chính hệ gia vị này đã định hình khẩu vị đặc trưng của người Mường, “ưa các vị chua và đắng”. Vị chua (như trong món thịt trâu nấu lá lồm, măng chua nấu gà ) và vị đắng (như trong rau đồ, chả cuốn lá bưởi) đều là những vị mang tính bình, tốt cho sức khỏe. Tất cả tinh hoa ấy được trình bày một cách trang trọng trong cỗ lá, biểu tượng cho tinh thần cộng đồng; cho cảm giác sum vầy, ấm cúng, trở thành chất keo gắn kết con người.
Theo TS. Chử Thị Thu Hà, du lịch hiện đại không còn là đi để ngắm, mà là đi để trải nghiệm”. Ngày nay, du khách không chỉ muốn ăn đủ, ăn no; mà họ khao khát được kết nối, khám phá, được trở thành một phần của câu chuyện. Và ẩm thực chính là cầu nối hoàn hảo cho sự kết nối đó. Khi đồng bào biết cách biến mình trở thành những“đại sứ văn hóa”, ẩm thực Mường sẽ không chỉ là một bữa ăn, mà là một lý do mãnh liệt để kéo du khách trở lại.
Luật Di sản văn hóa năm 2024, quy định tôn trọng sự đa dạng văn hóa, sự đối thoại giữa các cộng đồng và tính đặc thù dân tộc, vùng, miền. Ưu tiên bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa của cộng đồng các dân tộc thiểu số, miền núi và những di sản văn hóa có giá trị toàn cộng đồng, xã hội... Do đó, để lan tỏa giá trị ẩm thực truyền thống, gia tăng lượng khách đến, người Mường, trong quá trình kết nối giữa khách du lịch với giá trị văn hóa truyền thống bản địa, đang nỗ lực đẩy mạnh ứng dụng công nghệ vào hoạt động giới thiệu sản phẩm, quảng bá điểm đến, hỗ trợ dịch vụ đặt chỗ, thanh toán. Cách người Mường lựa chọn gia vị, chế biến món ăn, trình bày mâm cỗ và kể câu chuyện sau đó có sự góp mặt của công nghệ số, giúp bảo tồn di sản, phát triển du lịch cộng đồng bền vững tại địa phương và khu vực.
Khai thác văn hóa mà không làm mất đi hồn cốt
“Các lớp tập huấn, truyền dạy bảo tồn văn hóa không chỉ là cách làm sáng tạo trong bảo tồn di sản của cộng đồng người Mường mà còn khẳng định một tư duy mới: bảo tồn gắn với phát triển du lịch cộng đồng”, Cục trưởng Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam Trịnh Ngọc Chung khẳng định; ông kỳ vọng đây sẽ là kinh nghiệm tốt để nhiều địa phương trên cả nước nhân rộng, triển khai hiệu quả Dự án 6 của Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, giúp đồng bào dân tộc thiểu số nâng cao nhận thức về bảo tồn di sản, lan tỏa văn hóa và tạo sinh kế bền vững. Khi văn hóa tạo ra giá trị kinh tế thì vòng tròn bảo tồn, phát triển sẽ tự vận hành, người dân chính là trung tâm.

Người Mường đã và đang duy trì, truyền dạy, gìn giữ văn hóa truyền thống, phát triển du lịch. Nguồn: Hồng Phúc
Để khai thác văn hóa mà không làm mất đi hồn cốt, không bị thương mại hóa, theo ông Chung, phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam, các nhà nghiên cứu, chuyên gia bảo tồn và đặc biệt là nghệ nhân của cộng đồng các dân tộc, những người nắm giữ tri thức gốc. Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam có thể hỗ trợ trang phục, đạo cụ, nguyên liệu, tập huấn chuyên môn…, nhưng đó chỉ là phần “khung sườn”. Trách nhiệm duy trì, truyền dạy và gìn giữ thuộc về địa phương vì chỉ khi người dân tự thấy đó là tài sản của mình, di sản mới thực sự sống. Do đó, các địa phương cần có cơ chế đào tạo, bồi dưỡng nghệ nhân; tôn vinh, khen thưởng người gìn giữ văn hóa; tạo điều kiện cho họ tham gia lễ hội, dạy nghề, truyền dạy dân ca, dân vũ.
“Đây không chỉ là sự ghi nhận mà còn tạo ra sức hút, giúp người trẻ thấy việc bảo tồn gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa truyền thống sẽ tạo ra những giá trị kinh tế từ văn hóa, tăng thu nhập, góp phần phát triển kinh tế cho cá nhân, gia đình và cộng đồng. Từ đó, họ sẽ tích cực và chủ động tham gia nhiều hơn. Các địa phương đưa văn hóa truyền thống vào trường học, qua công nghệ số, bằng các hoạt động trải nghiệm (học hát dân ca, mặc trang phục truyền thống, tìm hiểu lễ hội…), sẽ giúp các em hình thành tình yêu với bản sắc dân tộc mình”, ông Chung chia sẻ.
Hạn chế hiện nay là nhiều địa phương chưa phát huy hết tiềm năng, dẫn đến các mô hình bảo tồn văn hóa gắn với du lịch còn manh mún, thiếu tính chuyên nghiệp và chưa đủ hấp dẫn. Để thay đổi, "cần đẩy mạnh xã hội hóa, thu hút doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân chung tay khai thác du lịch dựa trên văn hóa bản địa, nhưng phải theo hướng tôn trọng và gìn giữ bản sắc”, Cục trưởng Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam đề xuất.
(Vụ Pháp chế - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp thực hiện)































