Pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Trong mối quan hệ với các nhà sản xuất, cung ứng dịch vụ, người tiêu dùng (NTD) luôn ở thế yếu. Chính vì vậy, việc xây dựng và thực thi một cách đầy đủ các quy định bảo vệ NTD là yếu tố quan trọng để bảo đảm thực hiện một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, qua đó góp phần duy trì và thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
8 quyền cơ bản
Ngày 16/4/1985, sau một chiến dịch kéo dài của các tổ chức bảo vệ NTD ở nhiều quốc gia trên thế giới, Đại hội đồng Liên hợp quốc (LHQ) đã thông qua Nghị quyết số 39/248 về hướng dẫn về bảo vệ NTD. Bản hướng dẫn của LHQ vạch ra 8 quyền cơ bản của NTD để các nước có thể dựa vào đó để xây dựng các chính sách bảo vệ NTD, bao gồm quyền được thỏa mãn các nhu cầu cơ bản, quyền được an toàn, quyền được chọn lựa, quyền được thông tin, quyền được giáo dục tiêu dùng, quyền được giải quyết và bồi thường thiệt hại, quyền được đại diện, quyền được hưởng một môi trường lành mạnh.
Trong đó, quyền được an toàn là quyền của NTD được bảo vệ khỏi các sản phẩm, các quy trình sản xuất và dịch vụ có thể gây nguy hại cho sức khỏe và cuộc sống. Quyền này liên quan đến các chính sách của chính phủ nhằm thiết lập các tiêu chuẩn về chất lượng và an toàn sản phẩm, đi cùng với đó là các cơ sở vật chất công cộng nhằm kiểm tra, giám định về chất lượng và an toàn sản phẩm. Quyền được thông tin có nghĩa là NTD phải được thông tin về chất lượng, số lượng, hiệu lực, độ tinh khiết, tiêu chuẩn và giá cả của hàng hóa, dịch vụ để có thể đưa ra các quyết định đúng đắn và tự bảo vệ bản thân họ khỏi các hành vi lạm dụng. Bên cạnh đó, NTD phải được bảo đảm quyền tiếp cận các thông tin liên quan nội dung các chính sách bảo vệ NTD, các cơ chế giải quyết khiếu nại và chế tài có thể được áp dụng...
Còn quyền được giải quyết và bồi thường thiệt hại cơ bản liên quan đến việc các chính phủ xây dựng và thông qua các quy định cũng như cơ chế thực thi để tạo điều kiện cho NTD có thể khiếu nại và được giải quyết, bồi thường thiệt hại thông qua các thủ tục chính thức cũng như không chính thức một cách nhanh chóng, công bằng, với chi phí thấp và dễ tiếp cận.
Nghị quyết số 39/248 sau đó được Hội đồng Kinh tế và Xã hội LHQ mở rộng trong Nghị quyết số 1999/7 ngày 26/7/1999. Gần nhất, Nghị quyết này được Đại hội đồng LHQ sửa đổi bằng Nghị quyết số 70/186 ngày 22/12/2015 về bảo vệ NTD. Tại Nghị quyết số 70/186, Đại hội đồng LHQ nhấn mạnh rằng một khuôn khổ pháp lý và quy định vững chắc về bảo vệ NTD có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm lợi ích của cộng đồng, góp phần thúc đẩy kinh tế và phúc lợi NTD.
2 cách tiếp cận chủ đạo
Có thể thấy, Nghị quyết của LHQ nêu ra đã khá toàn diện và bao trùm được tất cả các vấn đề có liên quan đến công tác bảo vệ NTD. Một nghiên cứu của Tổ chức Thương mại và Phát triển LHQ (UNCTAD) cho hay, tính đến năm 2025, có 78 nước trên thế giới có luật quy định rõ ràng về nội dung bảo vệ NTD về an toàn sản phẩm, trong đó có 58 nước có luật quy định về vấn đề này, 65 nước có quy định ở mức độ chính sách và 32 nước có thỏa thuận hợp tác về an toàn sản phẩm.
Về giải quyết tranh chấp, UNCTAD khẳng định, việc giải quyết tranh chấp và bồi thường có thể góp phần củng cố niềm tin của NTD và xây dựng thị trường cạnh tranh hơn. Bảo đảm cơ chế giải quyết tranh chấp và bồi thường hiệu quả cho NTD là một trong những nội dung quan trọng nhất để bảo đảm quyền lợi của NTD trên thị trường quốc gia và quốc tế, nâng cao phúc lợi NTD và bảo đảm giám sát thị trường tốt hơn.
Thống kê cho thấy, hiện có 86 nước có luật bảo vệ NTD có quy định rõ về cơ chế giải quyết tranh chấp, 72 nước có quy định ở cấp độ chính sách về giải quyết tranh chấp, 35 nước có thỏa thuận hợp tác về giải quyết tranh chấp. Ngoài ra, hàng chục nước trên thế giới cũng có các quy định rõ ràng về việc bảo vệ NTD trong thương mại điện tử, tiêu dùng bền vững, bảo đảm dịch vụ tài chính...
Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đã xây dựng và ban hành các quy định về bảo vệ NTD ở các cấp độ khác nhau. Về cơ bản, có 2 cách tiếp cận chủ đạo trên thế giới, mà thông qua đó Nhà nước có thể bảo vệ lợi ích của NTD. Cách tiếp cận thứ nhất là xây dựng một hệ thống pháp lý, trong đó quy định trách nhiệm pháp lý đối với các bên sau khi đã xảy ra vi phạm, tức tiếp cận theo hướng các bên liên quan phải bồi thường thiệt hại sau khi xảy ra thiệt hại thực sự.
Cách tiếp cận thứ hai mang tính ngăn chặn, phòng ngừa, tức xây dựng một hệ thống pháp lý điều chỉnh, ngăn chặn trước các hành vi vi phạm để giảm thiểu vi phạm. Theo cách tiếp cận này, các bên liên quan phải chịu phạt khi vi phạm các quy định về tiêu chuẩn, kể cả trước khi có thiệt hại thực sự.

Nhiều nước trên thế giới đã có các quy định rõ ràng về việc bảo vệ NTD trong thương mại điện tử, tiêu dùng bền vững, bảo đảm dịch vụ tài chính... (Ảnh minh họa: European Business Review)
Quy định cụ thể của một số nước
Tại Nga, Điều 1 Luật Bảo vệ NTD của Nga nêu rõ, Luật này sẽ điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa NTD với nhà sản xuất, người thực hiện hay người bán khi bán hàng hóa sản phẩm hay thực hiện các công việc, cung cấp dịch vụ. Luật cũng nêu rõ 4 quyền cơ bản của NTD, bao gồm quyền được an toàn, quyền được thông tin, quyền được giáo dục tiêu dùng và quyền được giải quyết và bồi thường thiệt hại như là các mục tiêu điều chỉnh của Luật.
Tương tự, tại Thái Lan, Điều 4 Luật Bảo vệ NTD của Thái Lan quy định rõ, NTD có các quyền được bảo vệ bao gồm quyền được nhận thông tin và mô tả về chất lượng hàng hóa hoặc dịch vụ một cách đầy đủ và chính xác; quyền được tự do lựa chọn hàng hóa hoặc dịch vụ; quyền đòi hỏi an toàn trong khi sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ; quyền có được một hợp đồng công bằng; quyền được chăm sóc và đền bù cho các thiệt hại theo các quy định của pháp luật về vấn đề đó hoặc theo quy định của luật này.
Tại Hàn Quốc, các vấn đề pháp lý về bảo vệ NTD trong thương mại điện tử ở Hàn Quốc được quy định tại Luật về bảo vệ NTD trong thương mại điện tử năm 2017. Theo đó, Luật này quy định rõ về trách nhiệm của người cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho NTD, bao gồm cung cấp thông tin về người cung cấp hàng hóa, dịch vụ; trách nhiệm của người cung cấp hàng hóa, dịch vụ trong vấn đề tiếp cận các tài liệu giao dịch của NTD, trong đó có việc sử dụng thông tin của NTD; trách nhiệm của người cung cấp hàng hóa, dịch vụ trong việc sử dụng các công nghệ thích hợp trong các giao dịch thương mại điện tử; trách nhiệm của người cung cấp hàng hóa trong việc giao hàng; các hành vi bị cấm đối với người cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Luật cũng quy định về vai trò của cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ quyền lợi của NTD, bao gồm thực hiện hoạt động điều tra của cơ quan hành chính, thẩm quyền của tòa án trong giải quyết vụ tranh chấp.
Tại Singapore, Đạo luật Bảo vệ NTD năm 2009 của nước này quy định rõ, đơn vị kinh doanh phải cung cấp cho NTD tất cả thông tin liên quan và thiết yếu để tránh gây hiểu lầm cho NTD. Từ đó, NTD có thể đưa ra quyết định sáng suốt trong tiêu dùng của mình. Luật này cũng đã tăng hạn mức yêu cầu bồi thường theo quy định, từ 20.000 SGD lên thành 30.000 SGD; mở rộng thẩm quyền của Tòa án giải quyết các khiếu nại nhỏ nhằm bảo đảm NTD có thể theo đuổi các vụ kiện với chi phí thấp hơn. Luật cũng gia hạn thời hiệu khởi kiện của các cơ quan, tổ chức; mở rộng thời hiệu khởi kiện của NTD...
Tại Áo, Bộ luật Dân sự Áo, Luật Bảo vệ NTD và Đạo luật Chống Cạnh tranh không lành mạnh đều có các quy định liên quan đến việc về bảo vệ NTD. Trong đó, Bộ luật Dân sự Áo bao gồm các quy định chung về việc ký kết và thực hiện các loại hợp đồng khác nhau, các quy định về bảo hành; trong khi Luật Bảo vệ NTD có các quy định đặc biệt liên quan đến hợp đồng giữa NTD và doanh nghiệp còn Đạo luật Chống Cạnh tranh không lành mạnh bảo vệ NTD khỏi các hành vi gây hiểu lầm hoặc các hoạt động kinh doanh không lành mạnh.
Tại Nhật Bản, Luật Bảo vệ NTD của nước này quy định rõ mục tiêu bảo vệ quyền lợi của NTD, qua đó góp phần ổn định và cải thiện phúc lợi chung cũng như đời sống của người dân, phát triển lành mạnh nền kinh tế quốc dân. Luật này tiếp cận các biện pháp bảo vệ NTD dưới dạng các chính sách, khi quy định rõ các biện pháp bảo vệ NTD như phòng ngừa nguy hiểm; bảo đảm cân đo chính xác; xây dựng các tiêu chuẩn thích hợp; việc ghi nhãn hợp lý; bảo đảm cạnh tranh đúng đắn và tự do; đẩy mạnh các chương trình giáo dục và thông tin; phản ánh quan điểm của NTD; thiết lập các phương tiện thử nghiệm và thanh tra; thiết lập hệ thống xử lý khiếu nại.
Đặc biệt, Luật Bảo vệ NTD của Nhật Bản có quy định rõ biện pháp “thiết lập các hệ thống xử lý khiếu nại”; theo đó, nhà sản xuất, kinh doanh phải cố gắng thiết lập hệ thống để giải quyết một cách nhanh chóng và hợp lý, hợp tình các khiếu nại có thể nảy sinh trong quá trình giao dịch kinh doanh giữa họ và NTD nhằm giúp giải quyết một cách nhanh chóng, triệt để các khiếu nại của NTD, qua đó giảm số việc phải tiến hành giải quyết tranh chấp tại Tòa án. Ngoài ra, việc buộc tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải có trách nhiệm giải quyết các khiếu nại của NTD cũng nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của NTD.