Ổn định vĩ mô để tăng trưởng bền vững
Cuối tuần trước, Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính tổ chức tọa đàm tham vấn ý kiến chuyên gia về tình hình kinh tế - xã hội. Cuộc trao đổi xoay quanh những thách thức lớn của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới: dư địa chính sách tiền tệ và tài khóa ngày càng thu hẹp, trong khi nhu cầu tăng trưởng cao và bền vững vẫn là mục tiêu trọng tâm.

Quang cảnh buổi tọa đàm tham vấn ý kiến chuyên gia về tình hình kinh tế - xã hội. Ảnh: quochoi.vn
Cuộc tọa đàm được tổ chức nhằm cung cấp thông tin đầu vào, phục vụ công tác thẩm tra các báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội và cơ cấu lại nền kinh tế, để báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội và trình Quốc hội tại kỳ họp tháng 10 tới.
PGS.TS. Phạm Thế Anh, Đại học Kinh tế Quốc dân, cho rằng Việt Nam đang có xu hướng dịch chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu sang tăng trưởng dựa trên đầu tư công. Tuy nhiên, cả hai trụ cột tài khóa và tiền tệ hiện đều bộc lộ nhiều hạn chế, khiến dư địa chính sách ngày càng eo hẹp.
Ở khía cạnh tiền tệ, khả năng sử dụng công cụ để kích thích tăng trưởng gần như đã cạn. Tỷ lệ cung tiền/GDP và tín dụng/GDP của Việt Nam đang ở mức rất cao, lần lượt khoảng 160% và 140% - vượt xa so với nhiều nền kinh tế trên thế giới. Điều này phản ánh sự phụ thuộc quá lớn của nền kinh tế vào hệ thống ngân hàng.
Thêm vào đó, chênh lệch giữa lãi suất và lạm phát gần như bằng 0 khiến hệ thống ngân hàng khó huy động vốn dài hạn. Chênh lệch lãi suất tiền đồng - đô la Mỹ đang âm, tạo sức ép lớn lên tỷ giá. Trong khi đó, dự trữ ngoại hối đã giảm nhanh từ 110 tỉ đô la Mỹ xuống chỉ còn hơn 70 tỉ đô la Mỹ. “Nếu tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ thông qua hạ lãi suất và thúc đẩy tín dụng, nguy cơ bất ổn vĩ mô, gia tăng đầu cơ và suy giảm niềm tin thị trường là rất lớn”, ông Phạm Thế Anh cảnh báo.
Ở góc độ tài khóa, theo PGS.TS. Phạm Thế Anh, mặc dù tỷ lệ thu ngân sách/GDP của Việt Nam ở mức khá (trên 19%) so với khu vực, cơ cấu thu lại đang dịch chuyển theo hướng kém bền vững. Tỷ trọng thu từ thuế, phí đã giảm nhanh, từ gần 90% đầu thập niên 2010 xuống chỉ còn 71-78% tổng thu ngân sách trong những năm gần đây. Ngược lại, thu tiền sử dụng đất và thu hồi vốn, thu cổ tức, lợi nhuận sau thuế, chênh lệch thu, chi của Ngân hàng Nhà nước, ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách, trung bình lần lượt chiếm khoảng 10,6% và 6,9% trong giai đoạn 2019-2023.
Về thu ngân sách, huy động từ thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất và khá ổn định, lần lượt đạt khoảng 24% và 19% tổng thu ngân sách nhà nước trong những năm gần đây. Tiếp đến là thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế thu nhập cá nhân, mỗi sắc thuế chiếm tỷ trọng khoảng 9% tổng thu. Tuy nhiên, PGS.TS. Phạm Thế Anh lưu ý rằng, những sắc thuế này ảnh hưởng không tốt đến đầu tư, tiêu dùng hoặc gặp hạn chế về nguồn thu
Cơ cấu chi cũng thể hiện sự bất hợp lý khi chi thường xuyên chiếm tỷ trọng quá lớn. Ngoại trừ năm 2022, chi thường xuyên các năm tiêu tốn khoảng 65% tổng thu ngân sách nhà nước hoặc cao hơn. Nếu cộng cả chi trả nợ gốc và nợ lãi, thì khoản chi này chiếm khoảng 85-90% tổng thu ngân sách nhà nước. Trong khi đó, chi đầu tư phát triển trung bình trong khoảng 10 năm gần đây chỉ bằng một nửa chi thường xuyên và khoản chi này chủ yếu được tài trợ bằng các khoản vay nợ mới.
Nợ công hiện ở mức 35% GDP, tuy chưa cao, nhưng nghĩa vụ trả nợ so với tổng thu ngân sách lại ở mức đáng lo, gần như không còn dư địa để triển khai các dự án hạ tầng quy mô lớn. Trong một số năm, nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ chiếm gần 22% tổng thu ngân sách nhà nước, tiệm cận ngưỡng trần 25% mà Quốc hội cho phép.
Với thực tế này, PGS.TS. Phạm Thế Anh cho rằng, nếu không cải cách đồng bộ để nâng cao hiệu quả chi tiêu công và tái cơ cấu lại thu - chi ngân sách, nền kinh tế có thể đối diện nguy cơ thâm hụt ngân sách, bất ổn vĩ mô, thậm chí khủng hoảng.
Để có đủ nguồn lực tài chính cho các dự án hạ tầng lớn, yếu tố then chốt để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, PGS.TS. Phạm Thế Anh kiến nghị cần thu hẹp mạnh chi thường xuyên, tinh gọn bộ máy, tiết kiệm ngân sách để tái phân bổ cho đầu tư hạ tầng. Đây được coi là điều kiện tiên quyết để nâng cao hiệu quả chi tiêu công. Đồng thời, cần tìm kiếm nguồn thu mới và bền vững cho ngân sách. Ông gợi ý nghiên cứu đánh thuế bất động sản bỏ hoang, nhà ở thứ hai trở đi; đồng thời cải cách thuế thu nhập cá nhân nhằm kích thích tiêu dùng nội địa. Đây sẽ là cách để vừa củng cố nguồn thu, vừa hỗ trợ cầu trong nước.
Ở lĩnh vực tiền tệ, mục tiêu cốt lõi không nên là tăng trưởng bằng mọi giá mà phải là kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị tiền đồng. Ngân hàng Nhà nước cần chủ động hơn trong điều hành, kiểm soát tăng trưởng cung tiền ở mức hợp lý, dao động từ 5-8%/năm. Việc nới lỏng tín dụng chỉ nên dành cho các ngân hàng đáp ứng đầy đủ chuẩn an toàn vốn và quản trị rủi ro.
“Tăng trưởng cao là mục tiêu chính đáng. Nhưng để đạt được, Việt Nam cần một chiến lược tài khóa - tiền tệ cân bằng, vừa tạo động lực cho hạ tầng, vừa bảo đảm ổn định vĩ mô, tránh rủi ro bong bóng tài sản và khủng hoảng trong tương lai”, PGS.TS. Phạm Thế Anh nhấn mạnh.
Đưa ra những định hướng cho giai đoạn 2026-2030, TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, cũng cho rằng điều tiên quyết là kiểm soát lạm phát, giữ ổn định giá trị tiền đồng và bảo đảm nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc. Trong bối cảnh nền kinh tế không rơi vào khủng hoảng hay cú sốc từ bên ngoài, không nên nới lỏng tài khóa hay tiền tệ để chạy theo tăng trưởng ngắn hạn. Thay vào đó, cần tạo áp lực để các chủ thể kinh tế buộc phải tìm kiếm động lực tăng trưởng dài hạn bền vững hơn, thông qua khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và nâng cao năng suất.
Ông Cung nhấn mạnh, pháp luật cần khơi thông sức mạnh của toàn dân và mọi thành phần kinh tế bằng một nền hành chính hiệu quả, minh bạch, chi phí thấp, tiệm cận chuẩn quốc tế. Chỉ khi môi trường đầu tư, kinh doanh an toàn, thuận lợi, Việt Nam mới có thể “vừa thu hút “đại bàng” đầu tư, vừa có cả những “cánh rừng”, những “cánh đồng” cho các “đàn ong” (doanh nghiệp nội địa - PV) lấy hoa làm mật”. Trước mắt, ông đề xuất Chính phủ tập hợp và phân loại các khó khăn, vướng mắc pháp lý mà cộng đồng doanh nghiệp phản ánh lâu nay. Trên cơ sở đó, lựa chọn ít nhất 20 vấn đề ưu tiên để giải quyết dứt điểm, chậm nhất vào cuối năm 2025. Đây sẽ là bước đi then chốt để củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dư địa cho cải cách mạnh mẽ hơn trong giai đoạn tới.
Trong bối cảnh mô hình tăng trưởng chưa có đột phá rõ rệt, việc điều hành chính sách tài khóa và tiền tệ sẽ vô cùng khó khăn, PGS.TS. Vũ Sỹ Cường (Học viện Tài chính) nhận định. Theo ông, giai đoạn 2025-2026 cần tiếp tục kiên định nguyên tắc tài khóa chủ động, linh hoạt trong ngắn hạn nhưng phải tuân thủ kỷ luật tài chính và cân đối ngân sách trong dài hạn. “Tăng trưởng cao rất quan trọng, nhưng sự ổn định dài hạn của nền kinh tế còn có ý nghĩa lớn hơn. Tăng trưởng cần dựa trên cải thiện năng suất và hiệu quả, thay vì lạm dụng các chính sách ngắn hạn”, ông Cường nhấn mạnh.
Chia sẻ của các chuyên gia cho thấy những thách thức mà nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt trong năm năm tới là khá rõ: dư địa chính sách tiền tệ ngày càng hạn chế, cơ cấu thu ngân sách kém bền vững, nợ công khó mở rộng, trong khi áp lực tăng trưởng hạ tầng và duy trì ổn định vĩ mô lại ngày càng lớn. Trong bối cảnh đó, các chuyên gia đều đồng thuận, thay vì chạy theo tăng trưởng bằng mọi giá, Việt Nam cần kiên định với ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời thực hiện cải cách mạnh mẽ để tạo dư địa mới. Cân bằng giữa tăng trưởng và ổn định không chỉ là lựa chọn chính sách, mà còn là điều kiện sống còn để nền kinh tế phát triển bền vững trong thập niên tới.