'Nút thắt' cản trở thương mại khu vực và thu hút dòng vốn FDI

Trong khi các hàng rào thuế quan dần được gỡ bỏ, các rào cản phi thuế quan lại nổi lên như thách thức chính trong quá trình hội nhập ASEAN và thu hút đầu tư vào khu vực.

Theo thông tin tại hội thảo “Gỡ rào cản phi thuế quan vì thịnh vượng chung ASEAN” diễn ra sáng 27/6 tại Hà Nội, thời gian qua, hội nhập kinh tế ASEAN ngày càng sâu rộng với nhiều kết quả tích cực, đơn cử như tỷ lệ thuế quan nội khối hiện giảm xuống dưới 1%. Tuy nhiên, một thách thức lớn đang nổi lên hiện nay là các rào cản phi thuế quan (Non-Tariff Barriers – NTBs).

Trở ngại làm chậm dòng tiền

Thống kê của Ngân hàng Thế giới cho thấy có 9 loại biện pháp phi thuế quan (Non-Tariff Measures – NTMs) chủ yếu, bao gồm quy định kỹ thuật, kiểm dịch động thực vật (SPS), quy trình cấp phép, yêu cầu chứng nhận, thủ tục hành chính… Về bản chất, các biện pháp này nhằm mục tiêu chính đáng như bảo vệ sức khỏe cộng đồng, môi trường và sản xuất trong nước. Tuy nhiên, nếu thiếu minh bạch, thiếu hài hòa và khó dự đoán, chúng có thể trở thành rào cản cho thương mại và đầu tư - tức NTBs.

Bà Caroline Beresford, Đại sứ New Zealand tại Việt Nam cho biết hiện có tới hơn 2 triệu biện pháp phi thuế quan đang có hiệu lực, tác động tới 78% giá trị thương mại thế giới và việc áp dụng các biện pháp này đã gây tổn thất tới 2.4 nghìn tỷ NZD trong năm 2019.

Bà Caroline Beresford, Đại sứ New Zealand tại Việt Nam cho biết hiện có tới hơn 2 triệu biện pháp phi thuế quan đang có hiệu lực, tác động tới 78% giá trị thương mại thế giới và việc áp dụng các biện pháp này đã gây tổn thất tới 2.4 nghìn tỷ NZD trong năm 2019.

Tại hội thảo, bà Caroline Beresford, Đại sứ New Zealand tại Việt Nam nhấn mạnh, NTBs làm cản trở các dòng chảy hàng hóa và dịch vụ tự do, làm chậm trễ các hoạt động xuất khẩu và phương hại tới các nỗ lực tập thể của chúng ta trong việc hội nhập khu vực sâu hơn:

“Bối cảnh hiện nay đặt ra ngày càng nhiều thách thức đối với các doanh nghiệp, bao gồm bất ổn địa chính trị, các rào cản thuế quan mới, cạnh tranh gia tăng và những tác động đi kèm tới niềm tin của người tiêu dùng. Trong khi không thể kiểm soát hoàn toàn các làn sóng toàn cầu này, chúng ta vẫn có thể tận dụng và cải thiện hiệu quả hơn các khuôn khổ hiện có như các hiệp định thương mại tự do, cơ chế tham vấn, quy chuẩn thương mại và luật lệ quốc tế. Việc tháo gỡ NTBs cần được đặt ở vị trí trung tâm trong nỗ lực này”.

Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp ASEAN, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) đang phải đối mặt với chi phí tuân thủ cao do mỗi quốc gia áp dụng tiêu chuẩn kỹ thuật khác nhau. Việc thiếu thông tin kịp thời về thay đổi quy chuẩn, áp dụng thủ tục số hóa không đồng đều, hay yêu cầu chứng nhận đặc thù (Halal, dược phẩm…) càng khiến doanh nghiệp khó tiếp cận thị trường.

Hội nghị Liên hiệp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) tính toán, chi phí thương mại do NTBs chiếm đến 2 - 4 % giá trị hàng hóa. Còn theo một nghiên cứu của Dự án phân tích thương mại toàn cầu (GTAP) thuộc Đại học Purdue (Hoa Kỳ) ước tính rằng chỉ cần giảm 10% chi phí do NTBs, ASEAN có thể thu về mức tăng trưởng thương mại 3 - 4%, tương đương hàng chục tỷ USD.

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, các nước ASEAN cũng đang chuyển hướng chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài từ số lượng sang chất lượng và phát triển bền vững. NTBs không chỉ cản trở thương mại nội khối mà còn làm giảm sức hấp dẫn, kéo chậm dòng vốn quốc tế đầu tư vào khu vực.

Việt Nam với môi trường đầu tư - kinh doanh ngày càng cải thiện đáng kể, đang được nhiều nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn là điểm đến hấp dẫn và là trung tâm sản xuất chiến lược, kết nối với các chuỗi cung ứng toàn cầu.

Tuy nhiên, bà Phương Nguyễn, Luật sư điều hành chi nhánh Hà Nội, Công ty luật KPMG chỉ ra thực tế, tại Việt Nam, các doanh nghiệp phải đối mặt với các thách thức từ NTBs như quá nhiều thủ tục hành chính gây chậm trễ, tăng chi phí do thời gian lưu kho kéo dài; chậm trễ trong việc nhận chứng nhận từ cơ quan chức năng địa phương và các rào cản tiềm ẩn đối với yêu cầu cấp phép hoạt động xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FIEs).

Cần hành động khu vực và sự chủ động từ doanh nghiệp

Các nhà hoạch định chính sách, nhà nghiên cứu, doanh nghiệp cùng nhau thảo luận, xác định và tháo gỡ những nút thắt cụ thể trong vấn đề NTBs, giúp tận dụng tốt nhất tiềm năng từ tiến trình hội nhập khu vực.

Các nhà hoạch định chính sách, nhà nghiên cứu, doanh nghiệp cùng nhau thảo luận, xác định và tháo gỡ những nút thắt cụ thể trong vấn đề NTBs, giúp tận dụng tốt nhất tiềm năng từ tiến trình hội nhập khu vực.

Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 46 diễn ra tại Kuala Lumpur cách đây tròn một tháng, các nhà lãnh đạo ASEAN đã khẳng định lại chiến lược đến năm 2045, tập trung vào việc nâng cao khả năng liên kết kinh tế, thúc đẩy số hóa thủ tục hải quan và thương mại, và giảm thiểu các rào cản phi thuế quan không cần thiết.

Lãnh đạo các quốc gia Đông Nam Á cũng đã cam kết về việc xây dựng chính sách chung, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI đầu tư vào các quốc gia trong khu vực này.

Bà Caroline Beresford, Đại sứ NewZealand tại Việt Nam đánh giá, Chính phủ các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam và New Zealand, đã có những bước tiến đáng kể trong việc giảm thiểu NTBs. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều việc cần làm và chỉ có thể làm được với nỗ lực tập thể từ tất cả các bên.

Tại hội thảo, đại diện các nhà hoạch định chính sách, doanh nghiệp và hiệp hội đã chia sẻ, cung cấp thông tin về những vấn đề vướng mắc liên quan đến các NTBs và rút ra nhiều khuyến nghị đáng chú ý.

Khẳng định tiềm năng thương mại khu vực và các đối tác có Hiệp định thương mại tự do (FTA) như Úc, New Zealand - Khu vực thương mại tự do ASEAN - Úc- New Zealand (AANZFTA), ông Ngô Sỹ Hoài, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam cho rằng thay vì bị động tuân thủ quy chuẩn phương Tây, các nước ASEAN cần sớm xây dựng các tiêu chuẩn khu vực phù hợp để tạo lợi thế cho doanh nghiệp.

Còn bà Lê Hằng, Phó Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) cho rằng: “NTBs là tất yếu ở mọi thị trường, vấn đề là doanh nghiệp cần chủ động thích ứng”. Bà khuyến nghị doanh nghiệp tăng cường cập nhật thông tin chính sách, thị trường để thay đổi chiến lược kịp thời. Đồng thời cần nâng cao năng lực thông qua đào tạo và hội thảo, ứng dụng công nghệ vào dây chuyền sản xuất và đa dạng hóa sản phẩm phù hợp với yêu cầu của từng thị trường.

Đỗ Kiều

Nguồn Vnbusiness: https://vnbusiness.vn//viet-nam/nut-that-can-tro-thuong-mai-khu-vuc-va-thu-hut-dong-von-fdi-1107768.html
Zalo