Nuôi cua đá trên đảo Cồn Cỏ: Hướng đi mới cho sinh kế và bảo tồn
Từng đứng trước nguy cơ tuyệt diệt vì săn bắt và mất môi trường sống, cua đá – loài đặc hữu đảo Cồn Cỏ (tỉnh Quảng Trị) nay được bảo tồn bằng mô hình nuôi thương phẩm. Những cư dân tiên phong nuôi cua vừa mang đặc sản phục vụ du khách, vừa mở hướng phát triển kinh tế bền vững cho đảo tiền tiêu.
Đặc khu Cồn Cỏ, tỉnh Quảng Trị là một hải đảo nằm cách Cửa Việt khoảng 17 hải lý về phía Đông. Đảo có diện tích tự nhiên khoảng 230 héc-ta, được hình thành do hoạt động kiến tạo của núi lửa cổ giữa biển. Hòn đảo này mang giá trị địa chất độc đáo với các thềm đá bazan dọc bờ, những bãi tắm nhỏ hoang sơ được tạo thành từ vụn san hô, sò điệp, cát biển... Đặc biệt, Cồn Cỏ có hệ sinh thái rừng nhiệt đới 3 tầng đảo núi lửa với hơn 70% diện tích là rừng nguyên sinh.


Đặc khu Cồn Cỏ, tỉnh Quảng Trị là một hải đảo nằm cách Cửa Việt khoảng 17 hải lý về phía Đông.
Nhiều người khi nhắc đến đảo Cồn Cỏ thường nghĩ ngay đến con cua đá. Người dân trên đảo cũng tự hào vì sinh vật đặc hữu này đã đi vào thơ ca. Trong thời kỳ kháng chiến, cua đá được dùng làm thực phẩm cho cán bộ, chiến sĩ chiến đấu bảo vệ biển trời Tổ quốc. Tới thời bình, quần thể loài này dần bị suy giảm, trở nên quý hiếm do bị săn bắt và môi trường sống thu hẹp. Năm 2004, huyện đảo Cồn Cỏ (nay là đặc khu Cồn Cỏ) được thành lập, chính quyền cấm săn bắt, khai thác loài cua đá dưới mọi hình thức nhằm bảo vệ chúng trước nguy cơ tuyệt diệt.
Khi không thể khai thác ngoài tự nhiên, chính quyền và người dân đã tìm phương án nuôi trồng, với mục tiêu vừa để người dân và du khách được thưởng thức đặc sản, vừa đảm bảo công tác bảo tồn.

Loài cua đá trên đảo Cồn Cỏ.
Anh Ngô Quang (SN 1985, trú đặc khu Cồn Cỏ) là một trong những người đầu tiên trên đảo triển khai mô hình nuôi cua đá. Anh kể, gần 10 năm trước, huyện đảo Cồn Cỏ (nay là đặc khu) tổ chức cho người dân tham quan, học hỏi mô hình nuôi cua đá tại đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi).
Sau chuyến đi, vợ chồng anh mong sớm triển khai mô hình nuôi cua đá trên đảo Cồn Cỏ. Nhưng do khó khăn về vốn, kế hoạch phải tạm gác. Đến năm 2022, khi kinh tế gia đình dần ổn định, anh Quang đầu tư xây chuồng trại, mua cua giống từ Lý Sơn về nuôi thử nghiệm.
“Ở ngoài môi trường tự nhiên, cua sinh trưởng khá tốt nếu được bảo vệ. Nhưng khi đưa vào nuôi nhốt thì rất khó. Ban đầu, tôi đầu tư gần 100 triệu đồng để xây chuồng trại, mua giống. Các bể nuôi được xếp đá, gốc cây, san hô nhằm tái tạo môi trường sống tự nhiên cho chúng. Tuy nhiên, do thiếu kinh nghiệm nên vụ đầu thất bại hoàn toàn, cua bị rụng càng, chết gần hết”, anh Quang chia sẻ.

Anh Ngô Quang là một trong những người đầu tiên trên đảo triển khai mô hình nuôi cua đá.
Khó khăn không làm nản chí, vợ chồng anh tiếp tục mày mò, học hỏi thêm kiến thức nuôi cua từ sách báo, người quen và những mô hình thành công tại các địa phương khác. Khi đã đảm bảo được nguồn giống phù hợp và hiểu hơn về tập tính, anh tiếp tục triển khai nuôi.
Theo anh Quang, cua đá khác với nhiều loài giáp xác khác khi phần lớn thời gian chúng sống trên bờ. Chúng chỉ ở dưới biển khi còn nhỏ hoặc trong thời kỳ tìm bạn tình để sinh sản, còn lại chủ yếu sinh sống dưới tán rừng ẩm của đảo. Loài này thường đi ăn vào ban đêm, ban ngày trú trong các hang, khe, hốc đá, gốc cây để tránh ánh sáng mạnh và kẻ thù. Thức ăn của cua đá khá đa dạng, từ thực vật đến một số loài động vật nhỏ và côn trùng.

Anh Quang cố gắng xây dựng khu vực nuôi giống với môi trường sinh sống ngoài tự nhiên của loài cua đá.
“Phải hiểu được tập tính của chúng mới có phương pháp chăm nuôi phù hợp. Là loài chưa được thuần hóa nên chỉ cần có thay đổi nhỏ, chúng cũng ‘trở chứng’ ngay. Khi đã nắm rõ quy trình, việc nuôi thuận lợi hơn nhưng vẫn còn nhiều vất vả,” anh Quang cho biết.
Chuồng trại được anh bao kín, duy trì độ ẩm liên tục bằng việc tưới nước. Nước nuôi cua phải là nước biển, có độ mặn phù hợp; nếu không, cua sẽ rụng càng và chết dần. Thức ăn của cua đa dạng, anh Quang tận dụng các loại thực vật và hải sản trên đảo, nhưng phải đảm bảo chất lượng vì chúng rất nhạy cảm.
Thay vì nuôi đồng loạt, anh Quang nuôi cua theo kiểu gối vụ để đảm bảo nguồn cung liên tục. Cua của gia đình anh chủ yếu phục vụ du khách đến đảo, gần nuôi đến đâu, bán hết đến đó. Không chỉ nuôi cua đá, vợ chồng anh còn mở nhà hàng phục vụ người dân và du khách.


Chuồng trại được anh bao kín, đảm bảo độ ẩm liên tục bằng việc tưới nước biển.
Hiện gia đình anh Quang đang có 3 bể nuôi với khoảng 200 kg cua đá. Thường sau khoảng 1 năm nuôi, mỗi cá thể cua đạt trọng lượng 0,2–0,3 kg, tùy vào cua đực hay cái mà có thể xuất bán. Giá cua đá trên thị trường hiện khoảng 1 triệu đồng/kg.
Sau khi nuôi thành công cua thương phẩm, anh Quang ấp ủ ý định thả cua sinh sản về môi trường tự nhiên để tăng số lượng loài trên đảo. Anh cũng sẵn sàng chia sẻ quy trình nuôi cua cho các hộ dân trên đảo có nhu cầu phát triển kinh tế.

Sau khi nuôi thành công cua thương phẩm, anh Quang ấp ủ ý định đưa cua cái sinh sản về môi trường tự nhiên để tăng số lượng cua trên đảo.
Ông Lê Nhật Hải, Phó Trưởng phòng Kinh tế – Xã hội Đặc khu Cồn Cỏ, cho biết ngoài gia đình anh Quang, một hộ khác trên đảo cũng đăng ký thử nghiệm mô hình nuôi cua đá thương phẩm. Mô hình này không chỉ đáp ứng nhu cầu cua cho cư dân và du khách, mà còn góp phần bảo tồn loài cua quý hiếm. Đây được kỳ vọng sẽ trở thành hướng phát triển kinh tế mới, đầy triển vọng cho cư dân nơi đảo tiền tiêu.