Nữ sĩ hơn 200 năm vẫn khiến đàn ông 'đỏ mặt' và kính phục
Hơn 200 năm qua, nữ sĩ Hồ Xuân Hương được biết đến là một tài năng văn học với những vần thơ đa nghĩa, nhiều hàm ý, sắc sảo và độc đáo.
Hồ Xuân Hương, “Bà Chúa Thơ Nôm”, vốn nổi tiếng với những câu thơ đầy gợi cảm. Bà biến những vật bình dị trong đời sống, cái quạt, quả mít, bánh trôi, hang động… thành biểu tượng phồn thực sống động, đồng thời khẳng định tiếng nói độc lập và táo bạo của người phụ nữ giữa xã hội phong kiến khắt khe, khiến thi ca Việt Nam vừa phải ngạc nhiên, vừa đỏ mặt trước sự tinh tế và mạnh mẽ của bà.

Tranh vẽ Hồ Xuân Hương trên bìa cuốn Giai nhân di mặc. Ảnh: Tư liệu.
Khi ngòi bút khiến đàn ông cũng phải… “đỏ mặt”
Thơ ca của “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương là một hiện tượng đặc biệt trong văn học Trung đại Việt Nam. Thơ bà đầy ắp hình ảnh nhục cảm, táo bạo, được cho là đến mức khiến đàn ông cũng phải đỏ mặt. Giữa thời đại mà thơ ca bị bó buộc trong khuôn khổ đạo lý, tiết hạnh, Hồ Xuân Hương lại đưa vào thơ thân thể, dục tính và khoái cảm con người, những đề tài mà văn chương phong kiến thường né tránh.
Bà nhìn mọi vật quanh mình bằng con mắt khác thường. Những thứ tưởng như vô tri, bình dị trong đời sống, từ cái quạt, quả mít, con ốc, bánh trôi, đèo, động, hang, suối… đều được bà thổi vào đó hơi thở của xác thịt và sự sống. Cái “tục” trong thơ bà không nằm ở ngôn từ, mà ở cách bà dám nhìn và dám viết.

Hồ Xuân Hương trong tranh Bùi Xuân Phái. Ảnh: VOV.
Trong bài Vịnh cái quạt, những hình ảnh “chành ra ba góc”, “thịt vẫn thừa”, “nước bạc theo dòng chảy trắng phau” khiến người đọc phải ngượng ngùng mà vẫn phải bật cười vì ai cũng hiểu bà đang nói đến điều gì:
“Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa,
Duyên em dính dáng tự bao giờ.
Chành ra ba góc da còn thiếu,
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa”
Hay trong Quả mít, thứ quả dân dã bỗng hóa thành hình thể người nữ đầy gợi cảm:
“Thân em như quả mít trên cây,
Da nó xù xì, múi nó dày.
Quân tử có thương thì đóng cọc,
Xin đừng mân mó nhựa ra tay”
Đến Đèo Ba Dội, cảnh thiên nhiên trở nên ám gợi, đầy ẩn dụ nhục cảm:
“Cửa son đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Hiền nhân quân tử ai là chẳng,
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo”
Không dừng lại ở đó, trong Đánh đu, Hồ Xuân Hương miêu tả trò chơi dân gian bằng nhịp điệu và hình ảnh phơi phới, khêu gợi:
“Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh kẻ ngồi trông.
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng công ngửa ngửa lòng.
Chơi xuân đã biết xuân chẳng tá,
Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không!”.
Còn Thiếu nữ ngủ ngày lại cho thấy sự táo bạo tột cùng trong việc miêu tả hình thể người phụ nữ:
“Lược trúc biếng cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch đào nguyên nước chửa thông.”
Từ những bài thơ này, người đọc nhận ra một giọng điệu vừa trào phúng vừa nồng nàn bản năng. Hồ Xuân Hương không hề né tránh hay e dè trước thân thể, mà đem nó vào trung tâm thi ca. Chính điều ấy khiến thơ bà vượt khỏi khuôn phép, trở thành hiện tượng táo bạo hiếm có trong lịch sử văn học Việt Nam, một hiện tượng khiến người đọc, nhất là giới đàn ông cùng thời, vừa say mê, vừa… đỏ mặt.
Chiều kích tư tưởng sâu sắc
Nhiều học giả, nhà nghiên cứu và phê bình văn học vẫn băn khoăn: giữa một xã hội phong kiến kìm kẹp phụ nữ, vì sao một nữ sĩ như Hồ Xuân Hương lại có thể sáng tác những thi ca táo bạo đến mức bị coi là “dâm tục”, đề cao dục tính con người như vậy?
Theo các nghiên cứu, một phần lý giải nằm ở bối cảnh lịch sử. Sinh ra trong thời đại biến động, dưới chế độ phong kiến và Nho giáo hà khắc, Hồ Xuân Hương chứng kiến bao bất công, đặc biệt đối với phụ nữ. Tấm lòng bà trở nên chai sạn, bất mãn, và thơ của bà là tiếng nói khát khao tự do, khát khao được sống trọn vẹn. Chính trong sự ngột ngạt đó, ngòi bút nữ sĩ mới trở nên táo bạo, thậm chí bạo liệt đến mức “gây đỏ mặt” cho độc giả.
Nếu “tục” trong thơ dân gian chỉ là trò bông lơn vui tươi, thì ở Hồ Xuân Hương, nó mang chiều kích tư tưởng sâu sắc. Bà dùng cái cười và hình ảnh thân thể để vén lên sự giả trá của đạo lý phong kiến, nơi người đàn ông được phép “tứ thiếp tam thê”, còn người đàn bà phải giữ “tiết hạnh khả phong”.
Câu thơ trong Mời Trầu: “Này của Xuân Hương mới quệt rồi” là một cách tuyên bố chủ quyền nữ giới, khẳng định cái tôi ý thức giữa thế giới bị áp đặt bởi nam quyền.
Cái “tục” ấy vì thế không hề dung tục; nó là ngôn ngữ của khát vọng, một hình thức phản kháng tinh tế nhưng sâu sắc. Trong Bánh Trôi Nước, Hồ Xuân Hương viết:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non,
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.”
Tứ thơ giản dị nhưng mang tính tuyên ngôn: người phụ nữ tuy bị định đoạt, vẫn giữ trọn nhân cách. Người phụ nữ trong thơ bà không còn là đối tượng bi kịch, mà trở thành chủ thể của kiêu hãnh, của bản ngã.
Như vậy, cái “tục” trong thơ Hồ Xuân Hương không nhằm gợi dục, mà là cách biểu đạt triệt để của ý thức nữ quyền sơ khai: dùng thân thể để nói về tinh thần, dùng tiếng cười để chống lại trật tự, và dùng ngôn từ phồn thực để đòi lại quyền tồn tại cho chính mình. Trong lịch sử thi ca Việt Nam, chưa có nữ sĩ nào dám “nói to” đến thế và cũng chưa ai khiến chữ nghĩa vừa đỏ mặt, vừa thanh tao đến vậy.
Theo một số nhà nghiên cứu,những biểu tượng “tục” trong thơ Hồ Xuân Hương vừa không phải là tục, lấp lánh hai nghĩa thiêng và tục, thanh và tục. Bởi nó gắn liền với một điều thiêng liêng là sự cầu mong sinh sôi nảy nở cho mùa màng, con người, động vật, cây cối. Biểu tượng phồn thực trong thơ Xuân Hương có thể nói, đã mở ra những chiều kích tư tưởng và thẩm mỹ mới.
Dù vẫn có tranh cãi về tính “tục” trong thơ bà, nhưng có thể thấy rằng, để đạt được tiếng nói độc lập và táo bạo như bà, cần có can đảm, nhạy cảm và tinh thần phản kháng vượt trội. Bà không chỉ mở rộng ranh giới ngôn từ, mà còn đặt người phụ nữ vào trung tâm thi ca, biến những điều vốn bị cấm kỵ thành ngôn ngữ của bản ngã, của quyền sống, và của khát vọng tự do. Chính nhờ sức mạnh đó, Hồ Xuân Hương không chỉ là một hiện tượng văn học mà còn là biểu tượng của tiếng nói nữ quyền sơ khai, vang vọng đến tận hôm nay.
"Bà đặc biệt quan tâm đến đạo lý, đạo đức xã hội và phê phán tình trạng vô đạo đức của bọn ngụy quân tử. Hồ Xuân Hương đấu tranh cho quyền sống và hạnh phúc của người phụ nữ”, GS Hà Minh Đức nhận định.
Dù có nhiều nghiên cứu, đến nay, cuộc đời nhà thơ Hồ Xuân Hương vẫn bị bao phủ bởi những giai thoại với nhiều nguồn tư liệu không thống nhất về lai lịch. Một số cho rằng bà là con của cụ tú tài Hồ Phi Diễn (Nghệ An) với vợ lẽ, sinh ra ở phường Khán Xuân, ven hồ Tây. Học giả Trần Thanh Mại lại cho rằng bà là con của Hồ Sĩ Danh với vợ thứ.
Bà sinh ra vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, trong bối cảnh phong kiến Việt Nam suy tàn, dân chúng lầm than và chế độ “trọng nam khinh nữ” kìm hãm mọi khát vọng, quyền sống của phụ nữ. Giữa bối cảnh ấy, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã xuất hiện với những bài thơ “không giống ai”. Thơ ca của một nữ sĩ thời phong kiến cho đến tận bây giờ vẫn khiến hậu thế chưa thôi kinh ngạc.
Ngày 23.11.2021, UNESCO ra nghị quyết thống nhất vinh danh và cùng tham gia kỷ niệm năm sinh của nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Đến nay, trong 6 nhân tài đất Việt được UNESCO vinh danh (Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Chu Văn An, Hồ Xuân Hương và Nguyễn Đình Chiểu), duy nhất có Hồ Xuân Hương là nữ.