Nông nghiệp tuần hoàn và công nghệ số mở lối cho phát triển hiện đại, bền vững

Nông nghiệp Việt Nam chuyển từ canh tác truyền thống sang quản lý dựa trên dữ liệu với AI, IoT, drone và cảm biến, giúp tối ưu chi phí, giảm phát thải, thích ứng khí hậu. Mô hình tuần hoàn từ rơm–nấm–phân hữu cơ kết hợp quản lý nước thông minh tạo chuỗi giá trị mới cho ĐBSCL và Nam Trung Bộ.

Vùng ĐBSCL là vựa lúa, vựa thủy sản, trái cây của cả nước. Tuy nhiên, vùng này cũng đang chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn, sụt lún và thiếu nước ngọt. Khu vực Nam Trung Bộ cũng đối mặt với khô hạn kéo dài, sa mạc hóa và suy thoái đất, ảnh hưởng trực tiếp tới sinh kế của hàng triệu nông dân. Những thách thức này đe dọa an ninh lương thực quốc gia, tăng trưởng kinh tế vùng và mục tiêu phát triển bền vững. Vì vậy, ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp không chỉ là yêu cầu cấp bách mà là xu hướng tất yếu, là con đường để nông nghiệp Việt Nam phát triển hiện đại, hội nhập và bền vững.

Vùng ĐBSCL là vựa lúa, vựa thủy sản, trái cây của cả nước

Vùng ĐBSCL là vựa lúa, vựa thủy sản, trái cây của cả nước

Nông nghiệp Việt Nam đang chuyển từ canh tác truyền thống sang quản lý dựa trên dữ liệu nhờ AI, IoT, giúp giảm chi phí, tăng hiệu quả và thích ứng biến đổi khí hậu. Thiết bị trong nước ngày càng cạnh tranh so với nhập khẩu, drone, GPS và hệ thống tưới tự động được ứng dụng rộng rãi, đồng thời công nghệ sinh học và chọn giống chịu hạn mặn được phát triển.

Theo TS. Hoàng Anh Tuấn, Phó Trưởng phòng Khoa học và Đào tạo, Ban Quản lý Khu Nông nghiệp Công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh cho biết, biến đổi khí hậu đang gây áp lực nặng nề lên nông nghiệp, với xâm nhập mặn sâu 50–60 km ở ĐBSCL mùa khô 2024–2025 và hạn hán kéo dài tại Nam Trung Bộ, làm giảm năng suất và suy thoái đất.

ĐBSCL và Nam Trung Bộ cũng đang chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn, sụt lún và thiếu nước ngọt

ĐBSCL và Nam Trung Bộ cũng đang chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn, sụt lún và thiếu nước ngọt

Mô hình nông nghiệp tuần hoàn, tái sinh và quản lý nước thông minh đang mở rộng, từ (VAC) khép kín đến mô hình nuôi trồng trong môi trường khép kín (RAS), đến kho lạnh xanh và chuỗi cung ứng truy xuất nguồn gốc, góp phần giảm phát thải và thất thoát sau thu hoạch. Nhiều thiết bị công nghệ cao trong bảo vệ môi trường và tự động hóa được cấp bằng sáng chế, thị trường tín chỉ carbon cũng tạo thêm cơ hội thu nhập cho nông dân và doanh nghiệp.

TS. Hoàng Anh Tuấn nhấn mạnh, biến đổi khí hậu, biến động thị trường và thiếu nhân lực chất lượng cao là thách thức lớn. Để nông nghiệp phát triển bền vững, cần chính sách mạnh mẽ hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, giúp doanh nghiệp Việt Nam nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế và thúc đẩy chuyển đổi nông nghiệp thông minh.

"Chuyển đổi số không chỉ là trong các ngành khác mà hiện nay Chính phủ đang thúc đẩy chuyển đổi số, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. Có rất nhiều địa phương, nhiều tỉnh thành, đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh cũng đang phát triển và ứng dụng chuyển đổi số, trong đó có các robot, rồi các thiết bị tự động. Có thể nói về công nghệ, thiết bị tự động hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam đã làm rất tốt, có những ứng dụng thực tiễn và phù hợp với điều kiện của Việt Nam rất là nhiều, đặc biệt là về ứng dụng trí tuệ nhân tạo, Blockchain trong truy xuất nguồn gốc ứng dụng Big Data", TS. Hoàng Anh Tuấn nói.

Nông nghiệp tuần hoàn và công nghệ số mở lối cho phát triển hiện đại, bền vững

Nông nghiệp tuần hoàn và công nghệ số mở lối cho phát triển hiện đại, bền vững

Trong khi đó, TS. Nguyễn Trung Hải, Đại học Nông Lâm Huế đề xuất xây dựng hệ thống quản lý canh tác dựa trên dữ liệu (bón phân, tưới tiêu, thời vụ, làm đất) kết hợp AI, IoT và mô hình mô phỏng sinh địa hóa, đặc biệt là mô hình DayCent. Công cụ này mô phỏng chu trình sinh trưởng cây trồng, biến động carbon nitơ trong đất và được quốc tế công nhận để giám sát, báo cáo, thẩm định (MRV) trong dự án tín chỉ carbon.

TS. Hải cho biết, mô hình DayCent giúp đánh giá các biện pháp tối ưu, giảm giống, giảm phân, tưới tiết kiệm, quản lý rơm rạ, từ đó hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo điều kiện hạn mặn, tạo cơ sở kỹ thuật cho Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp. Khi dữ liệu chuẩn hóa, phối hợp liên ngành và sự đồng hành của nông dân, công nghệ này giúp ĐBSCL và Nam Trung Bộ phát triển nông nghiệp bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu và tham gia hiệu quả thị trường tín chỉ carbon.

"Chúng ta phải đưa công nghệ đến với người dân để từ đó áp dụng nó vào trong thực tiễn. Chúng ta nghe tín chỉ carbon rất nhiều, thật ra để làm được cần nữa đó là cam kết thực thi của người dân trong quá trình chúng ta làm, một khi mà người dân chưa hiểu được vấn đề lâu dài sẽ gây trở ngại trong cái vấn đề về tín chỉ carbon. Rồi các chính sách và các hợp tác đa ngành trong quá trình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu", TS. Hải chia sẻ.

Vùng ĐBSCL đang chịu áp lực kép từ biến đổi khí hậu, nước biển dâng và thay đổi dòng chảy thượng nguồn, kết hợp khai thác nước dưới đất quá mức, dẫn đến “vòng xoáy suy thoái” sụt lún, xâm nhập mặn sâu hơn và nguồn nước mặt bấp bênh.

Vùng ĐBSCL đang chịu áp lực kép từ biến đổi khí hậu, nước biển dâng

Vùng ĐBSCL đang chịu áp lực kép từ biến đổi khí hậu, nước biển dâng

TS. Đặng Hòa Vĩnh, Viện Khoa học sự sống, Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam cho biết, hiện vùng có ba nguồn nước chủ đạo, nước mưa tiềm năng lớn nhưng phân bố không đều, nước mặt biến động mạnh theo mùa, nước dưới đất bị khai thác vượt ngưỡng, gây sụt lún và suy giảm chất lượng.

Giải pháp được đề xuất là mô hình cấp nước tích hợp đa tầng, gồm hồ chứa phân tán và trữ nước mặt; mạng lưới thu trữ nước mưa hộ gia đình; chuyển nước liên vùng; nước dưới đất làm dự phòng chiến lược. Hệ thống này khai thác linh hoạt nguồn nước, kết hợp tích hợp nước mưa, nước mặt, nước dưới đất, tạo cân bằng dương, giảm sụt lún và tăng khả năng chống chịu cho toàn vùng, hướng tới an ninh nguồn nước bền vững cho ĐBSCL.

TS. Đặng Hòa Vĩnh nhấn mạnh: "An ninh nguồn nước ở ĐBSCL đang trong một vòng xoáy suy thoái, trong đó sụt lún đất do khai thác đường dưới đất là mối đe dọa cấp bách và nguy hiểm hơn nước biển dâng. Thứ hai nữa, chúng ta cần chuyển đổi tư duy, cần tái định vị vai trò của các nguồn nước trong một cách tiếp cận, tích hợp, nước mưa là nguồn cung chủ đạo tại chỗ, nước mặt là nguồn cung cơ hội linh hoạt, nước dưới đất là nguồn dự phòng chiến lược và định hướng giải pháp. Mô hình cấp nước tích hợp đa tầng khả thi về mặt kỹ thuật và là con đường tất yếu để xây dựng một hệ thống có khả năng chống chịu cao".

Năm 2025, TP. Cần Thơ có 319.000 ha đất trồng lúa, tổng diện tích gieo trồng đạt 718.000 ha, sản lượng ước 4,7 triệu tấn, tương ứng khoảng 4,7 triệu tấn rơm rạ phát sinh. Tỷ lệ cơ giới hóa đạt 100% các khâu làm đất, tưới, gieo sạ, thu hoạch; chăm sóc đạt 90%, trong đó drone áp dụng 30%. Tuy nhiên, việc thu gom rơm còn hạn chế, 20–60% diện tích vẫn đốt đồng, phát thải CO₂ và CH₄ đáng kể.

Cần Thơ triển khai mô hình nông nghiệp tuần hoàn từ rơm, thu gom rơm, rồng nấm ủ phân hữu cơ

Cần Thơ triển khai mô hình nông nghiệp tuần hoàn từ rơm, thu gom rơm, rồng nấm ủ phân hữu cơ

Để giảm phát thải và tạo giá trị gia tăng, Cần Thơ triển khai mô hình nông nghiệp tuần hoàn từ rơm, thu gom rơm, rồng nấm ủ phân hữu cơ, bón trở lại ruộng. Một số HTX trên địa bàn Cần Thơ đã thực hiện đầy đủ chu trình, kết hợp trồng rau, chăn nuôi và sản xuất nấm, phân hữu cơ, tăng thu nhập cho nông dân.

Mô hình canh tác lúa theo hướng bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu

Mô hình canh tác lúa theo hướng bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu

Mô hình nông nghiệp tuần hoàn, tái sinh và quản lý nước thông minh đang mở rộng

Mô hình nông nghiệp tuần hoàn, tái sinh và quản lý nước thông minh đang mở rộng

Bà Phạm Thị Minh Hiếu, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Cần Thơ cho biết, mô hình kinh tế tuần hoàn đã mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt, tiền bán rơm và dịch vụ cuộn tăng 3 - 4,8 triệu đồng/ha; trồng nấm rơm thêm 6,5 triệu đồng/ha; ủ phân hữu cơ từ rơm tăng 9,5 triệu đồng/ha. Tổng lợi nhuận đạt khoảng 33 - 35 triệu đồng/ha, tương đương 35 - 40% so với phương thức truyền thống. Mô hình giúp giảm đốt rơm, giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện độ phì đất, tăng năng suất và thu nhập ổn định cho nông dân.

"Mô hình nông nghiệp tuần hoàn có rất nhiều lợi ích, thứ nhất là thúc đẩy nền nông nghiệp không đốt rơm rạ. Thứ hai là cải thiện được cái độ phì trong đất, tăng năng suất lúa, giảm phát thải khí nhà kính, tăng thu nhập của nông dân. Ngoài ra thì mô hình chúng ta thấy là một ha lúa thì có thể tăng thêm khoảng 33 triệu đồng trên một ha. Như vậy thì nếu Cần Thơ mà mỗi năm mình có là 300.000 ha sản xuất lúa với 700.000 ha quay vòng thì mình có thể là có một số chính sách cũng như là các cơ chế, các giải pháp để mà có thể phát triển, nhân rộng cái mô hình này", bà Hiếu nói

Nông nghiệp ĐBSCL đang đứng trước nhiều thách thức, hạn hán, xâm nhập mặn, ngập úng và thời tiết thất thường, ảnh hưởng trực tiếp đến canh tác. Những giải pháp công nghệ, mô hình nông nghiệp tuần hoàn và chọn tạo giống thích ứng với biến đổi khí hậu không chỉ giúp tăng năng suất, giảm phát thải mà còn nâng cao thu nhập cho nông dân, mở ra hướng đi bền vững cho nông nghiệp Việt Nam. Đây cũng chính là nền tảng để ĐBSCL và Nam Trung Bộ phát triển nông nghiệp hiện đại, thích ứng biến đổi khí hậu và tham gia hiệu quả vào thị trường carbon toàn cầu.

Phạm Hải/VOV-ĐBSCL

Nguồn VOV: https://vov.vn/kinh-te/nong-nghiep-tuan-hoan-va-cong-nghe-so-mo-loi-cho-phat-trien-hien-dai-ben-vung-post1248290.vov