Nông nghiệp công nghệ cao - 'mảnh ghép' trong chiến lược phát triển quốc gia
Khoa học, công nghệ thực sự là giải pháp quan trọng đóng góp có hiệu quả, tạo ra chuyển biến mang tính đột phá trong phát triển sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, việc sửa đổi Luật Công nghệ cao, trong đó giữ vững các quy định về nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu nông nghiệp công nghệ cao là cần thiết để phát triển một nền nông nghiệp hiệu quả và bền vững.

Bảo đảm cơ sở pháp lý cho các địa phương tiếp tục duy trì, phát triển mô hình nông nghiệp công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Thể chế hóa rõ nét hơn các chính sách đột phá
Theo các chuyên gia, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là một lĩnh vực nghiên cứu khó thu hút được các nhà khoa học và những người đầu tư sẵn sàng tham gia. Đặc thù của lĩnh vực này là kết quả nghiên cứu phải được thử nghiệm sản xuất trong một khoảng thời gian dài, có thể phải trải qua nhiều vụ sản xuất và kéo dài đến vài năm mới có được kết quả chính xác. Do đó, rất cần cơ chế, chính sách tạo điều kiện, hỗ trợ tạo không gian cho các bên liên quan yên tâm thực hiện công việc này.
Thảo luận tại Tổ về dự án Luật Công nghệ cao (sửa đổi), các đại biểu đánh giá cao cơ quan soạn thảo đã tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cơ quan thẩm tra về bổ sung danh mục công nghệ cao được ưu tiên phát triển và giao Chính phủ quy định chi tiết, làm căn cứ xác định sản phẩm công nghệ được khuyến khích phát triển; xác định dự án ứng dụng công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển và được hưởng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước và ưu tiên trong chuyển giao công nghệ.
Tuy nhiên, để thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn theo đúng tinh thần “bộ tứ nghị quyết trụ cột” (Nghị quyết số 57, Nghị quyết 59, Nghị quyết số 66 và Nghị quyết số 68 của Bộ Chính trị), Ban soạn thảo cần nghiên cứu thể chế hóa rõ nét hơn các chính sách, biện pháp đột phá thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, phát triển công nghệ cao, công nghệ chiến lược, sản phẩm chiến lược… Đặc biệt, quy định liên quan ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, đa số các đại biểu đề nghị ban soạn thảo nghiên cứu giữ lại toàn bộ quy định về nông nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại Điều 16, 19, 32 Luật hiện hành.
Đại biểu Nguyễn Văn Mạnh (Phú Thọ) cho rằng, những quy định này đã được thiết lập ổn định suốt hơn 17 năm, gắn với nhiều đạo luật khác nhau như: Luật Công nghệ cao; Luật Đất đai; Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn; Luật Tổ chức Chính phủ… Việc đột ngột xóa bỏ sẽ tạo khoảng trống pháp lý và gây khó khăn cho các quy hoạch, thủ tục đất đai, tổ chức bộ máy và phân công nhiệm vụ của cơ quan nhà nước.
Thực tế, cả nước đã có 34 khu nông nghiệp công nghệ cao được quy hoạch tại 19 tỉnh, trong đó nhiều khu đã hoạt động hiệu quả và thu hút đầu tư lớn. Nếu xóa bỏ, sẽ tạo ra khoảng trống pháp lý, gây khó khăn trong quy hoạch, thủ tục đất đai, tổ chức bộ máy và phân công nhiệm vụ của cơ quan nhà nước. Vì vậy, việc giữ lại, hoàn thiện các quy định về khu nông nghiệp công nghệ cao là cần thiết để bảo đảm cơ sở pháp lý cho các địa phương tiếp tục duy trì, phát triển mô hình này, đại biểu Nguyễn Văn Mạnh nêu ý kiến.
Ưu tiên những vùng có điều kiện khó khăn
Bên cạnh đó, đại biểu Nguyễn Văn Mạnh đề nghị, tiếp tục duy trì, làm rõ, hoàn thiện các quy định về nông nghiệp công nghệ cao, khu nông nghiệp công nghệ cao, coi đây là cấu phần trọng tâm của chiến lược phát triển nông nghiệp hiện đại, bền vững và có sức cạnh tranh quốc tế. Đây cũng là bước đi cần thiết để Việt Nam giữ vững vị thế là trung tâm cung ứng nông sản chất lượng cao trong khu vực và trên thế giới.
Cùng quan điểm, đại biểu Phạm Hùng Thái (Tây Ninh) nhấn mạnh, việc duy trì các quy định về nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao sẽ giúp duy trì điều kiện thuận lợi trong thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, phù hợp với chủ trương hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao cần được duy trì để có cơ sở ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội tại các vùng nông thôn có lợi thế về sản xuất nông nghiệp.
Liên quan đến chính sách của Nhà nước đối với phát triển công nghệ cao, công nghệ chiến lược, các đại biểu Trần Thị Thanh Hương, Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) đề nghị, cần có ưu đãi cho dự án công nghệ cao tại các vùng dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Theo đó, cần miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ lãi suất… cho các doanh nghiệp đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng số, ưu tiên cấp đất cho khu công nghệ cao ở những vùng có điều kiện khó khăn.
Để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao về công nghệ cao, đại biểu Trần Thị Vân (Bắc Ninh) đề nghị, ngoài chính sách về môi trường, ưu đãi về thuế thu nhập, thì khu công nghệ cao cần có cơ sở hạ tầng hiện đại; môi trường tự nhiên trong lành; văn hóa doanh nghiệp và môi trường nhân sự; hệ sinh thái hỗ trợ đổi mới; quản lý và các chính sách minh bạch. Vì vậy, bên cạnh các chính sách hiện có, đại biểu đề xuất cần có thêm chính sách đặc thù về môi trường làm việc trong cơ sở nghiên cứu, dự án công nghệ cao, công nghệ chiến lược để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao từ nước ngoài và trong nước, đặc biệt là các tổng công trình sư, nhà khoa học, chuyên gia trình độ cao từ nước ngoài.
Ngoài ra, một số đại biểu đề nghị xây dựng danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư ngay trong Luật, làm căn cứ để xác định lĩnh vực cần khuyến khích, hỗ trợ hoặc ưu tiên chuyển giao công nghệ, thay vì chỉ chờ quy định chi tiết sau này của Chính phủ. Luật Công nghệ cao (sửa đổi) cần bảo đảm tính kế thừa, ổn định, nhưng đồng thời mang tầm nhìn dài hạn, tạo hành lang pháp lý đủ mạnh để Việt Nam bứt phá, gắn kết chặt chẽ giữa phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo và mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.


























