Nỗ lực chăm lo đời sống đồng bào dân tộc thiểu số
Công tác chăm lo đời sống đồng bào dân tộc thiểu số luôn được tỉnh coi là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt và cấp thiết. Cùng với chiến lược chính sách lớn được triển khai đồng bộ đã tạo nên những chuyển động thực chất, từ hạ tầng giao thông, giáo dục, y tế đến sinh kế và an sinh xã hội. Từng xóm, bản vùng sâu, vùng xa đang đổi thay từng ngày, thể hiện rõ nỗ lực của cả hệ thống chính trị trong việc đưa chủ trương của Đảng và Nhà nước đi vào đời sống.
Phó Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo Hà Văn Vui nhấn mạnh: Các chương trình, chính sách dân tộc chỉ thực sự có ý nghĩa khi đồng bào được thụ hưởng và nhận thấy chuyển biến bằng mắt, bằng tay, bằng chính sinh kế hằng ngày của họ. Chúng tôi đặt mục tiêu hỗ trợ phải đúng, trúng và tạo được sự thay đổi thực chất. Giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh triển khai quyết liệt công tác giảm nghèo - nội dung trọng tâm nhất trong chăm lo đời sống đồng bào. Hơn 33.800 hộ nghèo, cận nghèo và hộ mới thoát nghèo được vay vốn ưu đãi để phát triển sản xuất. Các mô hình chăn nuôi bò Mông, lợn đen địa phương, trồng cây dẻ, cây trúc, cây hồi… được nhân rộng nhờ có sự phối hợp giữa chính quyền, cơ quan chuyên môn và người dân.
Tỉnh triển khai đầy đủ các chính sách an sinh xã hội, như: hơn 310.000 thẻ bảo hiểm y tế được cấp miễn phí; trên 26.600 đối tượng được nhận trợ cấp hằng tháng; hơn 416.000 lượt nhân khẩu được cứu trợ gạo vào dịp Tết và giáp hạt; hàng nghìn trường hợp được trợ cấp đột xuất. Những chính sách này trực tiếp giúp đồng bào vượt qua thời điểm khó khăn, ổn định đời sống, tránh nguy cơ tái nghèo - một trong những thách thức lớn nhất của vùng dân tộc thiểu số.
Trong lĩnh vực giáo dục, hạ tầng các trường học được cải thiện đáng kể. Toàn tỉnh hiện có hơn 6.100 phòng học, trong đó 77% đã được kiên cố hóa; 516 cơ sở giáo dục được sắp xếp mạng lưới phù hợp với địa hình, dân cư. Số lượng trường đạt chuẩn quốc gia tăng nhanh, đạt 194 trường. Bên cạnh đó, hệ thống trường dân tộc nội trú, bán trú được mở rộng, tạo điều kiện cho học sinh vùng sâu, vùng xa được học tập trong môi trường đầy đủ hơn.

Hạ tầng cơ sở ở các xã vùng cao được đầu tư từ nguồn vốn các chương trình, chính sách dân tộc.
Cô Mạc Thị Uyên, Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học Quang Thành chia sẻ: Trước đây, các em đi học xa, thiếu ăn, thiếu mặc nên dễ bỏ học. Nay có bán trú, bữa ăn đủ chất hơn, lớp học kiên cố, tinh thần học tập tốt hơn rất nhiều. Nhiều em là dân tộc Dao, Mông đã mạnh dạn tham gia các cuộc thi, hoạt động ngoại khóa. Những đổi thay ấy chính là nền tảng căn cơ nhất để rút ngắn khoảng cách phát triển giữa miền núi và miền xuôi.
Trong lĩnh vực y tế, tỉnh duy trì 100% trạm y tế xã kiên cố hóa; triển khai hiệu quả tiêm chủng mở rộng; tăng tỷ lệ phụ nữ khám thai định kỳ và sinh con tại cơ sở y tế. Các mô hình chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, chăm sóc trẻ dưới 24 tháng tuổi, nuôi dưỡng trong 1.000 ngày đầu đời bước đầu tạo hiệu quả tích cực.
Hạ tầng giao thông, điểm nghẽn lớn nhất của tỉnh cũng được ưu tiên nguồn lực đầu tư. Đường ô tô đến trung tâm xã được cứng hóa đạt 96,3%. Nhiều tuyến đường liên xã, liên xóm được bê tông hóa nhờ sự chung sức của người dân và chính quyền. Các dự án giao thông trọng điểm như cao tốc Đồng Đăng - Trà Lĩnh, tuyến kết nối vào cao tốc, tuyến cao tốc Thái Nguyên - Cao Bằng đang được thúc đẩy, mở ra kỳ vọng về một hành lang phát triển mới, tạo điều kiện lưu thông hàng hóa, du lịch và giao thương biên giới.
Song song với kinh tế - xã hội, tỉnh quan tâm phát triển văn hóa và giữ gìn bản sắc. Toàn tỉnh có 97% thôn, xóm có nhà sinh hoạt cộng đồng. Đây là nơi tổ chức hội họp, lễ hội, tuyên truyền chính sách và gìn giữ trang phục, phong tục truyền thống của các dân tộc.
Không chỉ đầu tư hạ tầng, tỉnh còn triển khai các hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới, khởi nghiệp cho phụ nữ dân tộc. Hàng nghìn hội viên được tập huấn kỹ năng, hàng trăm ý tưởng khởi nghiệp được hỗ trợ, nhiều sản phẩm bản địa được phụ nữ khởi nghiệp đưa ra thị trường, góp phần nâng cao vai trò của phụ nữ trong đời sống kinh tế - xã hội.
Tỉnh xác định tiếp tục ưu tiên nguồn lực cho giai đoạn II của các chương trình mục tiêu quốc gia, đồng thời đẩy mạnh chuyển đổi tư duy sản xuất, nâng cao dân trí, hoàn thiện hạ tầng và củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc.
































