Nợ công Việt Nam tiếp tục duy trì trong ngưỡng an toàn, tạo dư địa cho phát triển kinh tế
Chính phủ vừa trình Báo cáo về tình hình nợ công năm 2025 và kế hoạch vay, trả nợ năm 2026 tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV. Báo cáo cho thấy, các chỉ tiêu nợ công của Việt Nam tiếp tục được kiểm soát chặt chẽ và duy trì ở mức an toàn, thấp xa so với trần cho phép.
Theo báo cáo của Chính phủ, đến cuối năm 2025, tỷ lệ nợ công so với GDP của Việt Nam ước đạt 35 - 36%, nợ Chính phủ chiếm khoảng 33 - 34% GDP, trong khi nợ nước ngoài của quốc gia duy trì ở mức 31 - 32% GDP. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu ngân sách nhà nước dự kiến chiếm 19 - 20%, còn nghĩa vụ trả nợ nước ngoài so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ chỉ khoảng 6 - 7%.
Các chỉ số này thấp hơn đáng kể so với các ngưỡng cảnh báo được Quốc hội quy định tại Nghị quyết 23/QH15 về Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công giai đoạn 2021 - 2025. Cụ thể, trần nợ công được ấn định tối đa 60% GDP, với ngưỡng cảnh báo 55%; nợ Chính phủ không vượt 50% GDP (ngưỡng cảnh báo 45%) và nợ nước ngoài của quốc gia tối đa 50% GDP (ngưỡng cảnh báo 45%).
Như vậy, nợ công của Việt Nam hiện thấp hơn khoảng 20 điểm phần trăm so với trần, cho thấy dư địa tài khóa còn rất lớn. Đây là yếu tố quan trọng giúp Việt Nam duy trì ổn định vĩ mô, củng cố niềm tin thị trường tài chính và nâng cao uy tín tín dụng quốc gia.

Ảnh minh họa
Trong năm 2025, tổng huy động vốn vay của Chính phủ dự kiến đạt hơn 802.600 tỷ đồng, tương đương 98,5% kế hoạch được duyệt. Trong đó, vay cho cân đối ngân sách trung ương chiếm gần 795.000 tỷ đồng, còn vay về cho vay lại đạt khoảng 7.800 tỷ đồng. Tổng kế hoạch trả nợ của Chính phủ trong năm là 506.900 tỷ đồng, bao gồm 468.500 tỷ đồng trả trực tiếp và 38.400 tỷ đồng trả nợ của các dự án vay lại.
Việc điều hành nợ công trong thời gian qua, theo Chính phủ, đã được thực hiện theo hướng chủ động, thận trọng và hiệu quả, bảo đảm nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nhưng vẫn giữ vững kỷ luật tài chính, không để vượt trần nợ công đã được Quốc hội phê duyệt.
Bước sang năm 2026, tổng nhu cầu vay của Chính phủ dự kiến khoảng 969.796 tỷ đồng, tăng gần 19% so với kế hoạch năm 2025. Trong đó, vay ngân sách trung ương để bù đắp bội chi và trả nợ gốc chiếm khoảng 959.700 tỷ đồng, còn lại là vay nước ngoài về cho vay lại.
Các nguồn vốn huy động sẽ được kết hợp linh hoạt giữa phát hành trái phiếu chính phủ trong nước, vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài và các nguồn tài chính hợp pháp khác, đảm bảo chi phí vay thấp, rủi ro nợ được kiểm soát và cơ cấu kỳ hạn hợp lý.
Dự kiến nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ năm 2026 vào khoảng 534.700 tỷ đồng, trong đó trả nợ trực tiếp 493.400 tỷ đồng, tương đương 20–21% tổng thu ngân sách nhà nước. Khoản trả nợ này bao gồm 376.000 tỷ đồng tiền gốc và 117.400 tỷ đồng tiền lãi. Bên cạnh đó, nghĩa vụ trả nợ vay lại của các dự án ước khoảng 41.335 tỷ đồng, gồm 30.160 tỷ đồng trả gốc và 11.175 tỷ đồng trả lãi.
Theo kế hoạch, đến cuối năm 2026, dư nợ công của Việt Nam vẫn duy trì trong vùng an toàn, ước đạt 36 - 37% GDP, trong khi nợ Chính phủ ở mức 34 - 35% GDP và nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 32 - 33% GDP. Đây là mức được đánh giá ổn định và bền vững, bảo đảm khả năng trả nợ trong trung và dài hạn.
Chính phủ khẳng định sẽ tiếp tục kiểm soát chặt chẽ bội chi, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay và thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, đặc biệt là các dự án trọng điểm quốc gia có tác động lan tỏa tới tăng trưởng. Đồng thời, Chính phủ sẽ mở rộng cơ sở thu, tăng thu từ xuất nhập khẩu và sản xuất trong nước, đồng thời thực hành tiết kiệm chi tiêu công, nhằm giảm áp lực vay nợ mới và tăng khả năng trả nợ gốc.
Bên cạnh đó, công tác quản lý rủi ro nợ công sẽ được tăng cường thông qua minh bạch thông tin, ứng dụng công nghệ số trong quản lý dữ liệu nợ, và áp dụng các thông lệ quốc tế tốt. Những giải pháp này không chỉ bảo đảm an toàn nợ công mà còn góp phần nâng cao hiệu quả điều hành tài khóa, củng cố uy tín tài chính quốc gia và tạo dư địa cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Theo đánh giá của Chính phủ, giữ vững an toàn nợ công là một trong những trụ cột quan trọng để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, củng cố niềm tin của nhà đầu tư và duy trì đà phục hồi kinh tế trong bối cảnh toàn cầu nhiều biến động.