Những năm tháng vàng để gỡ nút thắt hạ tầng
Chính phủ cho biết, tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 33,2% GDP năm 2025 và hướng tới 40% GDP năm 2026 – mức cao hiếm thấy ngay cả với các nền kinh tế đang phát triển nhanh trong khu vực.
Gỡ bỏ nút thắt thiếu hụt cơ sở hạ tầng – một trong những nút thắt lớn níu sự phát triển của đất nước, đang được dồn dập thực hiện để chuyển đổi trạng thái.
Sáng 18/10/2025, tại Hội nghị toàn quốc lần thứ tư về thúc đẩy giải ngân đầu tư công, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhìn thẳng vào con số 50,7% và nói: “Đây không chỉ là tỷ lệ, mà là thước đo năng lực quản lý, kỷ luật và tinh thần trách nhiệm của hệ thống.”
Câu nói ấy tóm gọn hiện trạng: Việt Nam đang đầu tư cho hạ tầng nhiều hơn bao giờ hết – nhưng đi cùng đó là nỗi lo về tốc độ giải ngân và hiệu quả đầu tư.
Chưa từng có nhiệm kỳ nào mà tổng vốn đầu tư công lại đạt quy mô tới 3,4 triệu tỷ đồng, tăng gần 55% so với giai đoạn trước. Năm 2025, tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 33,2% GDP, và kế hoạch 2026 còn hướng tới 40% GDP – mức cao hiếm thấy ngay cả với các nền kinh tế đang phát triển nhanh trong khu vực.
Những con đường cao tốc nối dài – 3.245 km được hoàn thành, vượt mục tiêu 3.000 km; các tuyến ven biển 1.711 km; sân bay Long Thành, nhà ga T3 Tân Sơn Nhất, các cảng trung chuyển quốc tế – tất cả cùng khởi động cho một “thập kỷ hạ tầng”.
Chính vì vậy, Thủ tướng nhấn mạnh: “Phải nói ít, làm nhiều; rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm.”

Đến giữa tháng 10/2025, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công của cả nước mới đạt 50,7% kế hoạch, tương đương khoảng 455 nghìn tỷ đồng. Ảnh: Nguyễn Huế
Những năm tháng vàng của phát triển hạ tầng
Trong 5 năm 2021–2025, Việt Nam đã dành hơn 3,4 triệu tỷ đồng vốn đầu tư công – con số tăng 55% so với nhiệm kỳ trước, dù số lượng dự án giảm từ hơn 11.000 xuống còn 4.600. Nghĩa là, đầu tư không còn dàn trải, mà tập trung hơn, quy mô lớn hơn và hướng tới tính lan tỏa cao hơn.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội chiếm tới 33,2% GDP năm 2025, đạt đúng mục tiêu Chính phủ đặt ra (32–34%), và năm 2026 dự kiến sẽ nâng lên 40% GDP – tỷ lệ cao bậc nhất trong lịch sử tài khóa và Đông Nam Á hiện nay.
Tốc độ phát triển hạ tầng của Việt Nam trong giai đoạn này có thể xem là “bước nhảy vọt” để “chuyển đổi trạng thái”.
Nếu như đến năm 2020, cả nước mới có 1.163 km cao tốc, thì đến cuối năm 2025 con số ấy đã là 3.245 km – gấp gần 3 lần. Đường ven biển dài 1.711 km, vượt kế hoạch 1.700 km. Cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1 đã cơ bản hoàn thành; nhà ga T3 Tân Sơn Nhất, nhà ga T2 Nội Bài, Cát Bi, Phú Bài đều được mở rộng; các tuyến metro Cát Linh – Hà Đông, Nhổn – Ga Hà Nội, Bến Thành – Suối Tiên lần lượt vận hành.
Bức tranh hạ tầng của Việt Nam hôm nay có thể gói gọn trong hai chữ “đồng loạt”. 80 dự án lớn trị giá 445 nghìn tỷ đồng và 250 công trình tiêu biểu với tổng vốn 1,28 triệu tỷ đồng được khởi công hoặc khánh thành trong năm 2025 – con số thể hiện rõ quyết tâm “đột phá hạ tầng” như một trong ba khâu chiến lược.
Giải ngân vẫn là khâu yếu
Đến giữa tháng 10/2025, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công của cả nước mới đạt 50,7% kế hoạch, tương đương khoảng 455 nghìn tỷ đồng.
Điều đáng nói là, đây đã là năm thứ tư liên tiếp Chính phủ phải tổ chức hội nghị toàn quốc về thúc đẩy giải ngân – và cũng là năm thứ tư lặp lại thông điệp: “Tiền có, dự án có, nhưng vẫn chậm.”
29 bộ, cơ quan trung ương và 18 địa phương có tỷ lệ giải ngân thấp hơn trung bình cả nước; nhiều dự án trọng điểm vẫn vướng mặt bằng, thủ tục, và thậm chí cả… tâm lý e dè trách nhiệm.
Thủ tướng Phạm Minh Chính nói thẳng: “Không có lý do gì để tiền nằm trong kho, trong khi dân, doanh nghiệp đang khát vốn”.
Giải ngân chậm trong khi tiền đã có sẵn trong kho bạc không chỉ kéo lùi tiến độ công trình, mà còn triệt tiêu động lực tăng trưởng của cả nền kinh tế. Trong một quốc gia mà đầu tư công chiếm hơn 1/3 tổng đầu tư xã hội, mỗi phần trăm giải ngân chậm tương đương hàng chục nghìn tỷ đồng “nằm chết” trong kho bạc trong khi vẫn phải trả lãi suất vay.
Ngân hàng Thế giới nhận định: đầu tư công của Việt Nam giai đoạn 2019–2024 bình quân đạt 6,4% GDP, cao hơn Thái Lan và Indonesia (5%), nhưng tài sản đầu tư đầu người vẫn thấp hơn do hiệu suất đầu tư chưa cao.
Tỷ lệ giải ngân thực tế chỉ đạt dưới 80%, còn chất lượng đầu ra của nhiều dự án “chưa tương xứng với lượng vốn bỏ ra”.
Nói cách khác, chúng ta đang chạy nhanh về quy mô, nhưng vẫn chậm về hiệu quả – bởi thể chế thực thi chưa bắt kịp tốc độ ra quyết sách.
Các siêu dự án để “chuyển đổi trạng thái”
Những dự án sắp tới – những “siêu công trình” tới đây sẽ định hình diện mạo kinh tế Việt Nam trong nhiều thập niên.
Theo kế hoạch giai đoạn 2026–2030, Việt Nam sẽ khởi công tuyến đường sắt cao tốc Bắc – Nam trị giá khoảng 67 tỷ USD, dự án đường sắt Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng hơn 8 tỷ USD, cùng các công trình hạ tầng chiến lược như Cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ, Liên Chiểu, Hòn Khoai, sân bay Gia Bình, mở rộng các sân bay Phú Quốc, Chu Lai, Cà Mau, và hàng loạt dự án điện gió – điện khí theo Quy hoạch điện VIII.
Đây là những dự án có tầm vóc, nhưng cũng là bài kiểm tra năng lực tài khóa khắc nghiệt. Với quy mô vốn đầu tư toàn xã hội dự kiến đạt 40% GDP năm 2026, Việt Nam đang tiến gần ranh giới an toàn của chi tiêu đầu tư công.
World Bank cảnh báo: khi khối lượng đầu tư tăng nhanh, rủi ro về chi phí vay nợ, khả năng trả nợ và chậm tiến độ sẽ tăng theo. Ở nhiều nước đang phát triển, việc mở rộng đầu tư công quá nhanh mà thiếu kiểm soát hiệu quả thường dẫn đến “tăng trưởng hình thức” – GDP tăng, nhưng năng suất toàn yếu tố (TFP) không cải thiện, tài sản công nhanh chóng xuống cấp, còn gánh nặng nợ công gia tăng.
Trong mô hình tăng trưởng hiện nay, hạ tầng vẫn là “động cơ truyền thống” – kéo đầu tư, việc làm và tiêu dùng. Nhưng nếu chỉ dựa vào đầu tư công, không cải thiện thể chế, động cơ ấy sẽ sớm “hao dầu, nóng máy”.
Các nghiên cứu của World Bank chỉ ra: mỗi 1% GDP tăng thêm từ đầu tư công chỉ có thể tạo ra 1,5% tăng trưởng trung hạn – với điều kiện hiệu quả đầu tư được đảm bảo. Còn nếu hiệu suất thấp, tác động lan tỏa sẽ nhanh chóng triệt tiêu.
Vì vậy, “đột phá hạ tầng” chỉ thật sự có ý nghĩa khi đi kèm đột phá thể chế. Cần một chu trình đầu tư khác hẳn – từ lập kế hoạch, phê duyệt, giải ngân đến giám sát, đánh giá – đều được số hóa, công khai và gắn với trách nhiệm cá nhân.
Phải sửa đồng bộ Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu, Luật PPP, xây dựng danh mục đầu tư quốc gia thống nhất, tránh trùng lặp, tránh cơ chế “xin dự án”, và chuyển trọng tâm giám sát từ “đúng quy trình” sang “hiệu quả đầu ra”.
Chính phủ đã xác định hạ tầng là một trong ba đột phá chiến lược, và đang đi đúng hướng: đầu tư tập trung, giảm dàn trải, tạo kết nối vùng – miền. Một tuyến đường chỉ thực sự thông khi thủ tục được rút gọn, trách nhiệm được xác lập rõ ràng, và nguồn vốn được lưu thông như mạch máu khỏe mạnh của nền kinh tế.
Khi những tuyến cao tốc được hoàn thành, đường sắt cao tốc khởi động, và các siêu dự án năng lượng – cảng biển dần hình thành, Việt Nam đang mở ra một chương mới của phát triển. Nhưng chính những dự án siêu khổng lồ đó đòi hỏi năng lực tổ chức, giám sát và quyết tâm của người thực thi.