Những hướng đi, giải pháp cho nhiệm kỳ mới

Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ I, các đại biểu đã dành nhiều thời gian trao đổi, chia sẻ những ý kiến sâu sắc, thể hiện tinh thần trách nhiệm và tầm nhìn chiến lược đối với sự phát triển bền vững của tỉnh. Báo và Phát thanh, Truyền hình Bắc Ninh trích đăng một số ý kiến.

Đồng chí Nguyễn Văn Phúc, Trưởng Ban Quản lý các Khu công nghiệp tỉnh: Thu hút đầu tư chất lượng cao vào các khu công nghiệp

Nhiệm kỳ 2020-2025, mặc dù chịu tác động của đại dịch Covid-19 và cạnh tranh gay gắt, Bắc Ninh vẫn đạt được nhiều kết quả nổi bật: Số khu công nghiệp tăng thêm 10 khu, đất công nghiệp đã được đầu tư hạ tầng đi vào khai thác khoảng 4.087 ha, tỷ lệ lấp đầy bình quân 56,56%. Tỉnh đã thu hút 2.805 dự án với tổng vốn đăng ký mới và điều chỉnh là 44,848 tỷ USD; kim ngạch xuất khẩu đạt 64 tỷ USD; tạo việc làm cho 555.000 lao động. Tuy nhiên, việc thu hút đầu tư công nghệ cao còn ít, hạ tầng xã hội chưa đồng bộ, công tác quản lý nhà nước còn bất cập. Nguyên nhân do khung pháp lý chưa đồng bộ, phân cấp ủy quyền chưa đầy đủ và sức ép cạnh tranh thu hút đầu tư giữa các địa phương ngày càng lớn.

Để thực hiện mục tiêu trở thành trung tâm công nghiệp công nghệ cao, chuyển mạnh sang công nghiệp xanh, công nghệ cao, công nghệ số, phát triển bền vững, giai đoạn 2026-2030, Ban Quản lý Các khu công nghiệp tỉnh đề xuất một số giải pháp trọng tâm. Trước hết là hoàn thiện thể chế, kiến nghị sớm ban hành Luật Khu công nghiệp và Khu kinh tế, phân cấp mạnh hơn cho Ban Quản lý trong thẩm quyền quản lý đầu tư, đất đai, môi trường.

Thu hút đầu tư có chọn lọc, ưu tiên dự án công nghệ cao, bán dẫn, năng lượng tái tạo; mời gọi tập đoàn đa quốc gia đầu tư R&D, thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Phát triển hạ tầng đồng bộ, bảo đảm khu công nghiệp có giao thông, xử lý nước thải, cây xanh, nhà ở, trường học, dịch vụ y tế cho người lao động. Tiếp tục chuyển đổi số trong quản lý, xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung, minh bạch thông tin quy hoạch, thủ tục đầu tư. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, kết nối doanh nghiệp - trường nghề; khuyến khích đào tạo lao động kỹ thuật, ứng dụng tự động hóa trong sản xuất.

Đồng chí Dương Thanh Tùng, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường: Phát triển nông nghiệp theo chiều sâu

Trong những năm qua, lĩnh vực nông nghiệp của tỉnh đạt nhiều kết quả nổi bật, phát triển toàn diện theo hướng hàng hóa tập trung, quy mô lớn, từng bước hiện đại và bền vững. Nhiều vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh được hình thành như vùng vải thiều gần 30 nghìn ha dẫn đầu cả nước, vùng cây ăn quả gần 54 nghìn ha, đàn lợn gần 1,2 triệu con, đàn gia cầm hơn 26 triệu con. Tỉnh đã xây dựng nền nông nghiệp đa dạng, có nhiều sản phẩm chủ lực chất lượng cao, được thị trường trong nước và quốc tế đón nhận. Đặc biệt, vải thiều Lục Ngạn đạt chuẩn OCOP 5 sao, xuất khẩu sang hơn 30 quốc gia và vùng lãnh thổ. Toàn tỉnh có hơn 770 sản phẩm OCOP từ 3 sao trở lên.

Để tiếp tục phát triển nông nghiệp theo chiều sâu, Sở Nông nghiệp và Môi trường tham mưu Tỉnh ủy, UBND tỉnh tập trung vào một số giải pháp, đó là: Quy hoạch vùng sản xuất gắn với công nghiệp chế biến, ứng dụng công nghệ cao, xây dựng chuỗi giá trị bền vững. Đẩy mạnh chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp; xây dựng bản đồ thổ nhưỡng, ứng dụng AI điều tiết dinh dưỡng cho vùng cây ăn quả chủ lực. Phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn; mở rộng thị trường xuất khẩu chính ngạch. Xây dựng hạ tầng phục vụ sản xuất quy mô lớn, cơ giới hóa đồng bộ, gắn nông nghiệp với du lịch sinh thái và xây dựng nông thôn mới.

Đồng chí Đào Duy Trọng, Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo: Thu hẹp chênh lệch mức sống

Bắc Ninh hiện có 29 xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi, chiếm 29,2% tổng số xã, với hơn 390.000 người dân tộc thiểu số, thuộc 45 thành phần dân tộc. Những năm qua, nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và tỉnh, cùng với nỗ lực của Nhân dân, vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã có chuyển biến rõ nét, hạ tầng được đầu tư, đời sống người dân được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 4,65% (năm 2024), nhiều xã đạt chuẩn nông thôn mới. Tuy nhiên, vùng dân tộc thiểu số và miền núi vẫn đối mặt nhiều khó khăn, địa bàn rộng, cơ sở hạ tầng còn thiếu, tỷ lệ nghèo cao gấp 2,7 lần mức bình quân tỉnh; kết quả giảm nghèo chưa bền vững; mức độ hưởng thụ dịch vụ công, giáo dục, y tế còn thấp; tác động tiêu cực của thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu còn lớn.

Để phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi, Sở đề xuất một số giải pháp trọng tâm. Đó là: Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy, chính quyền, cụ thể hóa chính sách dân tộc theo hướng đặc thù, thiết thực. Phát triển nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số gắn với dạy nghề, giải quyết việc làm tại chỗ. Ưu tiên đầu tư hạ tầng thiết yếu, hỗ trợ phát triển sinh kế, nhân rộng mô hình sản xuất hiệu quả. Đẩy mạnh truyền thông, phát huy vai trò người có uy tín trong cộng đồng. Gắn bảo tồn bản sắc văn hóa với phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng.

Đồng chí Tạ Việt Hùng, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo: Phấn đấu đưa giáo dục mũi nhọn vào top 10 cả nước

Hiện nay, toàn tỉnh có 1.221 cơ sở giáo dục với gần 47.000 cán bộ, giáo viên và nhân viên; đội ngũ đạt chuẩn đào tạo là 97,7%, trình độ trên chuẩn đạt 40,8%.Trong các năm học vừa qua, Sở Giáo dục và Đào tạo đã tham mưu với Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, kế hoạch và chính sách phát triển giáo dục và đào tạo theo lộ trình đổi mới. Các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục được đầu tư, tăng cường. Bởi vậy chất lượng giáo dục toàn diện được nâng cao; chất lượng giáo dục mũi nhọn có bước tiến vượt bậc.

Năm học 2024-2025, Bắc Ninh đạt nhiều thành tích nổi bật: Xếp thứ 9 cả nước về điểm trung bình các môn thi tốt nghiệp trung học phổ thông, có 880 bài thi đạt điểm 10, trong đó có học sinh Trường trung học phổ thông Chuyên đạt Thủ khoa toàn quốc khối A00 với 30/30 điểm. Tại kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, tỉnh đoạt 180 giải/206 học sinh dự thi (tỷ lệ 87,38%), đứng thứ hai toàn quốc về số lượng giải Nhất. Đặc biệt, có 6 học sinh đạt giải tại các kỳ thi Olympic khu vực và quốc tế, trong đó có 3 Huy chương Vàng.

Để đưa giáo dục mũi nhọn vào top 10 cả nước, ngành giáo dục - đào tạo tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp. Đó là chuẩn hóa điều kiện dạy và học, xây dựng phòng học, phòng thí nghiệm đạt chuẩn quốc tế, tăng cường thiết bị dạy học hiện đại, đẩy mạnh chuyển đổi số và khai thác trí tuệ nhân tạo. Phát triển đội ngũ, tăng cường bồi dưỡng chuyên môn sâu, nâng cao tỷ lệ giáo viên trình độ sau đại học; tổ chức chuyển giao chuyên môn từ trung học cơ sở chuyên xuống trung học cơ sở, phát hiện sớm học sinh năng khiếu từ bậc tiểu học. Thiết kế chương trình học tập riêng cho học sinh giỏi, tổ chức các lớp chuyên sâu với giáo viên, chuyên gia hàng đầu; đẩy mạnh giao lưu, hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu trong và ngoài nước. Tăng cường chính sách thu hút nhân tài, đề xuất các chính sách đãi ngộ cao đối với giáo viên giỏi, giáo viên các trường chuyên; huy động sự vào cuộc của doanh nghiệp, tổ chức xã hội và cựu học sinh trong đầu tư phát triển giáo dục mũi nhọn.

Đại tá Thân Văn Duy, Phó Giám đốc Công an tỉnh: Thúc đẩy chuyển đổi số, cải cách hành chính theo Đề án 06

Đảng ủy Công an tỉnh Bắc Ninh xác định chuyển đổi số, cải cách hành chính và triển khai Đề án 06 về phát triển dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử là nhiệm vụ trọng tâm, góp phần xây dựng chính quyền điện tử, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Đến nay, Bắc Ninh đã hoàn thành cấp căn cước công dân gắn chip đạt 100% dân số, cấp hơn 2,7 triệu tài khoản định danh điện tử, cung cấp 2.087 thủ tục hành chính trên Cổng dịch vụ công; xây dựng hệ sinh thái công dân số và ứng dụng rộng rãi dịch vụ công trực tuyến, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.

Thời gian tới, Công an tỉnh đề xuất tiếp tục tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác chuyển đổi số, người đứng đầu các cấp phải xác định rõ chuyển đổi số, cải cách hành chính là nhiệm vụ trọng tâm, bảo đảm sự quyết liệt và thống nhất trong toàn hệ thống chính trị. Đẩy mạnh tuyên truyền, đào tạo, nâng cao nhận thức và kỹ năng số cho cán bộ, công chức, viên chức và người dân, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển chính quyền số. Phát triển hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin bảo đảm hệ thống an toàn, hiện đại, hỗ trợ ứng dụng chuyển đổi số hiệu quả. Tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh các hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực trong cải cách thủ tục hành chính để tạo môi trường thuận lợi, minh bạch cho người dân và doanh nghiệp. Bảo đảm dữ liệu dân cư “đúng, đủ, sạch, sống”, đồng bộ dữ liệu, cắt giảm tối đa hồ sơ giấy tờ, đơn giản hóa thủ tục nhằm nâng cao chất lượng phục vụ và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Đồng chí Nguyễn Thanh Bình, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND phường Việt Yên: Xây dựng phường thành hạt nhân công nghiệp - dịch vụ thông minh

Nhiệm kỳ vừa qua, kinh tế phường Việt Yên tăng trưởng bình quân 15%/năm; thu nhập bình quân đầu người đạt 67 triệu đồng/năm, tăng 1,2 lần; tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm 83,8%; thu ngân sách đạt hơn 1.000 tỷ đồng; tỷ lệ đô thị hóa đạt 100%. Hạ tầng giao thông, đô thị, cấp nước, chiếu sáng, vệ sinh môi trường được đầu tư đồng bộ. Tỷ lệ quy hoạch chung, quy hoạch phân khu đạt 100% và tỷ lệ quy hoạch chi tiết đạt khoảng 36,9%. Tỷ lệ cứng hóa đường cấp xã đạt 100%, đường tổ dân phố đạt trên 90%...

Đảng bộ phường Việt Yên xác định rõ vai trò then chốt của cấp ủy trong khơi dậy khát vọng phát triển, thúc đẩy kinh tế - xã hội toàn diện, bền vững, hướng tới đô thị thông minh, giàu bản sắc. Trên cơ sở đó, Đảng bộ phường tập trung thực hiện các giải pháp. Đó là, xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, xây dựng đội ngũ cán bộ “hồng” - “chuyên” có tư duy số, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; sinh hoạt chi bộ gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Phát huy dân chủ, vai trò sức mạnh của Nhân dân, đổi mới công tác dân vận. Tăng cường kiểm tra, giám sát và nêu gương, kịp thời phát hiện, ngăn chặn suy thoái, tiêu cực; đổi mới phương thức lãnh đạo theo phương châm “3 dám, 3 hơn, 5 rõ” để giữ vững vai trò tiên phong của cấp ủy. Lắng nghe, giải quyết kịp thời nguyện vọng chính đáng của người dân. Tập trung lãnh đạo hiện đại hóa hạ tầng, quản lý đô thị bằng công nghệ số; đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện, xây dựng chính quyền số, công dân số; quản lý đô thị văn minh, tạo môi trường xanh - sạch - đẹp, hạ tầng đồng bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, xây dựng Việt Yên thành hạt nhân công nghiệp - dịch vụ thông minh của tỉnh.

Đồng chí Trần Ngọc Thực, Bí thư Đảng ủy phường Thuận Thành: Bảo tồn tranh Đông Hồ gắn với phát triển du lịch

Phường Thuận Thành là nơi lưu giữ nghề làm tranh dân gian Đông Hồ - di sản văn hóa phi vật thể quốc gia được Bộ Văn hóa- Thể thao và Du lịch công nhận năm 2012. Nghề tranh Đông Hồ là biểu tượng văn hóa đặc sắc của vùng Kinh Bắc, nhưng hiện nay chỉ còn khoảng 10 hộ sản xuất truyền thống do thu nhập thấp, thiếu nhân lực kế thừa và thị trường tiêu thụ hạn chế.

Trước thách thức mai một nghề truyền thống trong bối cảnh hội nhập và phát triển kinh tế thị trường, cấp ủy đảng đóng vai trò then chốt trong công tác bảo tồn, phát huy di sản. Đảng bộ phường Thuận Thành xác định phải tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về giá trị tranh Đông Hồ, đặc biệt với thế hệ trẻ thông qua lồng ghép nội dung di sản trong giáo dục và tổ chức trải nghiệm thực tế tại làng nghề. Lãnh đạo quy hoạch, đầu tư xây dựng Trung tâm Bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ phát huy hiệu quả, kết nối phát triển du lịch - dịch vụ, đồng thời huy động nguồn lực xã hội hóa và ưu tiên chính sách hỗ trợ bảo tồn làng nghề. Phát huy vai trò của nghệ nhân, hỗ trợ đào tạo truyền nghề, khuyến khích sáng tạo và xây dựng mô hình “xưởng tranh - trải nghiệm du lịch” nhằm đa dạng hóa sản phẩm và nâng cao giá trị kinh tế. Phát triển du lịch gắn với các di tích văn hóa trong vùng, tổ chức sự kiện văn hóa thường niên và ứng dụng công nghệ số để quảng bá tranh Đông Hồ trên thị trường trong nước và quốc tế. Tăng cường hợp tác quốc tế, bổ sung hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận nghề làm tranh Đông Hồ trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại nhằm nâng cao vị thế di sản trên trường quốc tế, góp phần phát triển bền vững ngành dịch vụ, du lịch của tỉnh.

Đồng chí Chu Văn Trọng, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND phường Chũ: Nâng cao chất lượng hoạt động của chi, đảng bộ

Đảng bộ phường Chũ hiện có 112 tổ chức đảng trực thuộc với 2.554 đảng viên. Thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW khóa XIII về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới, Đảng ủy phường đã tập trung đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương thức lãnh đạo, nâng cao vai trò của các chi, đảng bộ trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị và phát triển kinh tế - xã hội. Tỷ lệ đảng viên tham gia học tập nghị quyết đạt trên 98%, với hơn 15.500 việc đăng ký học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong nhiệm kỳ 2020-2025. Công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường, góp phần giữ vững kỷ luật, kỷ cương và nâng cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, một số chi bộ còn hạn chế trong nhận thức chức năng, nhiệm vụ; công tác giáo dục chính trị tư tưởng chưa chặt chẽ; một số nơi khó khăn trong công tác kết nạp đảng viên…

Để khắc phục những hạn chế này, Đảng ủy phường tập trung thực hiện một số giải pháp. Đó là, tăng cường chỉ đạo các chi, đảng bộ bám sát, vận dụng sáng tạo nghị quyết của Đảng vào thực tiễn, tập trung giải quyết kịp thời các vấn đề bức xúc của Nhân dân, giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội. Phát huy vai trò của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác tuyên truyền, vận động Nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh. Kiện toàn đội ngũ cấp ủy, đặc biệt là bí thư cấp ủy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, tăng cường tự phê bình và phê bình. Chú trọng công tác kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm các cán bộ, đảng viên vi phạm, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng Đảng.

Đồng chí Nguyễn Thanh Tùng, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã Lạng Giang: Đẩy mạnh đô thị hóa, đưa Lạng Giang trở thành phường vào năm 2027

Đô thị hóa là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Tỷ lệ đô thị hóa của Việt Nam đã tăng từ 30,5% năm 2010 lên khoảng 45% năm 2025. Bắc Ninh đạt tăng trưởng GRDP bình quân 8,98%/năm, quy mô kinh tế ước đạt hơn 20 tỷ USD năm 2025, đứng thứ 5 cả nước. Trong bối cảnh đó, xã Lạng Giang, với diện tích 55,41 km² và dân số trên 63.000 người, được hợp nhất từ thị trấn Vôi và các xã lân cận, có tiềm năng lớn trở thành phường vào năm 2027, đóng vai trò đô thị vệ tinh hiện đại, thông minh của tỉnh.

Để hiện thực hóa mục tiêu này, Đảng bộ xã Lạng Giang xác định các giải pháp trọng tâm. Trước hết quán triệt sâu rộng Nghị quyết, tạo đồng thuận cao trong toàn Đảng bộ và Nhân dân, huy động sức mạnh toàn hệ thống chính trị thực hiện quyết liệt mục tiêu xây dựng phường. Nghiên cứu, lập quy hoạch chung đô thị với tầm nhìn dài hạn, phát triển hạ tầng giao thông, mở rộng quỹ đất công nghiệp và dịch vụ chất lượng cao, ưu tiên phát triển đô thị nén, tăng hiệu quả sử dụng đất. Huy động tối đa nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng đồng bộ theo tiêu chuẩn đô thị loại phường, phối hợp chặt chẽ với các sở ngành tỉnh để hoàn thiện thủ tục pháp lý, sớm được công nhận đô thị và thành lập phường. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế tư nhân; phát triển đồng bộ kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Đồng thời, Đảng bộ xã tập trung củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, xây dựng chính quyền kiến tạo, gần dân, phục vụ Nhân dân hiệu quả.

Đồng chí Nguyễn Công Ký, Bí thư Đảng ủy xã Gia Bình: Tập trung giải phóng mặt bằng Cảng hàng không quốc tế Gia Bình

Dự án Cảng hàng không quốc tế Gia Bình có quy mô 1.960 ha - là dự án trọng điểm quốc gia, phục vụ nhiệm vụ quốc phòng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh. Trong đó xã Gia Bình có khoảng 884,6 ha thuộc quy hoạch dự án, với hơn 2.400 hộ phải di dời. Đây là thách thức lớn trong công tác giải phóng mặt bằng.

Quá trình triển khai gặp những khó khăn do khối lượng đất thu hồi lớn, thời gian gấp rút, phức tạp trong xác minh nguồn gốc đất, một số hộ dân chưa đồng thuận và tiến độ hạ tầng chưa đáp ứng kịp thời. Trước thực tế này, Ban Thường vụ Đảng ủy xã Gia Bình xác định công tác giải phóng mặt bằng là nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xuyên suốt. Giải pháp then chốt được triển khai gồm: Xây dựng kế hoạch cụ thể theo tinh thần 6 rõ: Rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ sản phẩm, rõ thẩm quyền để bảo đảm tiến độ và chất lượng công việc. Tăng cường tuyên truyền, vận động: Phương châm “đi từng ngõ, gõ từng nhà” nhằm tạo sự đồng thuận, giúp bà con hiểu biết đầy đủ về ý nghĩa, lợi ích và trách nhiệm của mình đối với dự án. Thành lập các tổ công tác kiểm tra, giám sát; kiểm tra chéo, đột xuất tiến độ và chất lượng giải phóng mặt bằng; xử lý nghiêm minh sai phạm, tránh tiêu cực. Phát động thi đua cao điểm biểu dương, khen thưởng kịp thời tập thể, cá nhân hoàn thành tốt nhiệm vụ; kiểm điểm nghiêm các trường hợp làm chậm tiến độ. Các cấp, ngành, đoàn thể phối hợp chặt chẽ, bảo đảm công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đúng tiến độ, không để phát sinh những vấn đề phức tạp. Với quyết tâm cao, xã Gia Bình phấn đấu hoàn thành giải phóng mặt bằng hơn 430 ha đất nông nghiệp trong năm 2026.

Đồng chí Đỗ Tuấn Sơn, Bí thư Đảng ủy phường Từ Sơn: Quan tâm tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo

Phường Từ Sơn được thành lập trên cơ sở sáp nhập 4 phường, hiện có 30 khu phố, dân số hơn 65.000 người. Từ năm 2020 đến nay, phường đã tiếp nhận, phân loại và xử lý hàng trăm lượt đơn thư; nhiều vụ việc phức tạp, kéo dài đã được giải quyết dứt điểm, không để phát sinh "điểm nóng", đơn thư vượt cấp. Kết quả này là nhờ sự lãnh đạo sát sao của cấp ủy đảng, đặc biệt là vai trò của Ban Thường vụ Đảng ủy trong phân công, thành lập tổ công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, giao cho các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ trực tiếp phụ trách, chịu trách nhiệm trước Đảng ủy.

Yêu cầu quản lý đô thị ngày càng cao, tình hình đơn thư, khiếu nại, tố cáo tại phường còn diễn biến phức tạp, chủ yếu liên quan đến đất đai, bồi thường giải phóng mặt bằng, đất dịch vụ, tranh chấp đất đai, chính sách xã hội... Để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác này, Đảng bộ phường xác định tiếp tục quán triệt nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương và Tỉnh ủy, thực hiện hiệu quả Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Quy định số 11-QĐi/TW ngày 18/02/2019 của Bộ Chính trị về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân.

Ban hành nghị quyết chuyên đề, xây dựng kế hoạch rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ kết quả, tạo chuyển biến đồng bộ trong cả hệ thống chính trị. Tăng cường tiếp công dân định kỳ và đột xuất, đẩy mạnh đối thoại trực tiếp với người dân, tập trung giải quyết từ cơ sở. Phối hợp liên ngành, kiểm tra, giám sát, xử lý dứt điểm các vụ việc tồn đọng, phức tạp, nhất là trong lĩnh vực đất đai, quy hoạch, đầu tư xây dựng. Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo là thước đo năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự xã hội, củng cố niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Thu Phong - Quốc Trường (thực hiện)

Nguồn Bắc Ninh: https://baobacninhtv.vn/nhung-huong-di-giai-phap-cho-nhiem-ky-moi-postid427701.bbg