Những được mất trong 'cuộc chiến 12 ngày'

Cuộc tấn công bất ngờ của Israel nhằm vào Iran trong tháng 6 đã châm ngòi cho một chuỗi leo thang quân sự khó kiểm soát, đẩy khu vực vào vòng xoáy xung đột mới.

Dù gây tổn thất nặng cho đối phương, Israel lại đang đối mặt với phản ứng quyết liệt cả về quân sự lẫn ngoại giao - từ chính Iran và từ cộng đồng khu vực cũng như quốc tế. Một lần nữa, lịch sử đặt ra câu hỏi quen thuộc nhưng chưa bao giờ cũ: Liệu một hành động phủ đầu có đủ để giành ưu thế chiến lược, hay sẽ mở ra một chu kỳ trả giá dai dẳng cho bên chủ động khai hỏa?

Thủ tướng Benjamin Netanyahu động viên binh sĩ Israel.

Thủ tướng Benjamin Netanyahu động viên binh sĩ Israel.

Ngày 24/6, cả Israel và Iran đều tuyên bố ngừng bắn, khép lại “Cuộc chiến 12 ngày”. Giờ đây, câu hỏi đặt ra là: Những tính toán chiến lược nào đã đẩy Israel vào cuộc chiến này và Thủ tướng Benjamin Netanyahu đã phạm phải những sai lầm gì? Trước hết, giới lãnh đạo Israel đã dự đoán rằng các cuộc không kích của mình sẽ khiến người dân Iran bất mãn nổi dậy, thậm chí họ kỳ vọng người dân Iran sẽ nghênh đón các đòn tấn công bằng “hoa và kẹo”. Nhưng kỳ vọng đó đã không trở thành hiện thực. Trái ngược với suy tính của một số cơ quan truyền thông và các đồng minh có quan điểm cứng rắn, đời sống tại Iran vẫn duy trì bình thường: ngay cả chợ búa và các công sở vẫn mở cửa, không hề có cảnh bạo loạn hay tấn công các cơ quan chính quyền. Thay vào đó, sự hợp tác và ủng hộ mà công chúng Iran dành cho nhà nước lại gia tăng. Dù chưa có kết quả khảo sát chính thức, các bằng chứng thực địa cho thấy tỷ lệ ủng hộ của người dân đối với chính quyền Cộng hòa Hồi giáo đang ở mức cao nhất trong vòng 30 - 40 năm trở lại đây. Sự đồng thuận ngoài dự kiến này là một tài sản quý giá có thể làm thay đổi cục diện chiến tranh và, nếu được khai thác đúng cách, sẽ giúp gắn kết chính quyền với nhân dân, tạo tiền đề cho những tiến bộ về kinh tế, chính trị và văn hóa. Việc người dân đoàn kết xung quanh chính phủ trước một cuộc xâm lược từ bên ngoài là điều hoàn toàn tự nhiên, nhất là khi bên khai hỏa trước lại chính là Israel, một quốc gia vốn bị quốc tế chỉ trích mạnh mẽ về các hành vi vi phạm nhân quyền tại Gaza. Thế nhưng, dường như trước khi cuộc chiến nổ ra, các nhà hoạch định chính sách và giới cố vấn của Israel đã suy nghĩ trong một khuôn khổ hoàn toàn khác.

Cảnh đổ nát ở Tehran sau đòn tập kích của Israel. Ảnh: New York Times

Cảnh đổ nát ở Tehran sau đòn tập kích của Israel. Ảnh: New York Times

Bên cạnh việc tính toán sai lầm về phản ứng của người dân Iran, Israel còn mắc một sai lầm nghiêm trọng khác khi đánh giá thấp sức mạnh quân sự của đối thủ. Cuộc tấn công chớp nhoáng của Israel tuy đã gây tổn thất nặng nề cho giới lãnh đạo quân sự Iran, tàn phá một phần công nghiệp quốc phòng cũng như kho dự trữ máy bay không người lái, tên lửa và hệ thống radar của nước này, nhưng nó không thể làm tê liệt hoàn toàn mạng lưới phòng thủ của Tehran. Chỉ trong vài ngày, Iran đã phóng khoảng 2.000 tên lửa và máy bay không người lái (UAV) về phía Israel. Điều đáng ngạc nhiên là giới lãnh đạo Israel đã không rút ra bất kỳ bài học nào từ thực tế chiến trường Yemen. Tại Yemen, mặc cho nhiều tuần bị không kích dữ dội bởi Mỹ, Israel và các cường quốc châu Âu, lực lượng kháng chiến ở quốc gia này vẫn không hề đầu hàng; suốt nhiều tháng, họ thậm chí liên tục phóng tên lửa tấn công vào lãnh thổ Israel. Suy nghĩ rằng chỉ vài ngày oanh tạc có thể khuất phục được một quốc gia quy mô như Iran - rộng lớn, đông dân, địa hình hiểm trở, nền công nghiệp phát triển và có hàng chục năm đầu tư cho chương trình tên lửa - rõ ràng là hết sức phi thực tế. Thực tế cho thấy, chưa từng có chế độ nào sụp đổ chỉ bằng không kích nếu không có lực lượng bộ binh theo sau. Điều đó lại càng bất khả thi đối với Mỹ và Israel trong trường hợp Iran. Trên thực tế, không hề có chiến dịch trên bộ nào diễn ra: không một phát súng nào được bắn ra, không một binh sĩ hay xe tăng Iran nào bị tiêu diệt. Hơn nữa, Israel và Mỹ không có chung đường biên giới với Iran. Bất kỳ kế hoạch tấn công trên bộ nào cũng bất khả thi về mặt hậu cần và chắc chắn sẽ thất bại về mặt chiến lược. Đối với Israel, quốc gia vẫn đang gặp nhiều khó khăn trong việc kiểm soát tình hình tại Dải Gaza, thì việc cân nhắc đến một chiến dịch quân sự quy mô nhằm vào Iran là điều thiếu thực tế về cả mặt chiến lược lẫn hậu cần.

Tòa nhà ở Israel bị hư hại nghiêm trọng trong đòn tấn công của Iran. Ảnh: GettyImages

Tòa nhà ở Israel bị hư hại nghiêm trọng trong đòn tấn công của Iran. Ảnh: GettyImages

Mặt khác, Israel cũng không lường trước được thái độ của cộng đồng khu vực và quốc tế đối với hành động của mình. Sau những gì đã xảy ra tại Gaza, đa phần dư luận Trung Đông và thế giới đều không ủng hộ việc Israel tấn công Iran. Thay vì đứng về phía Israel, nhiều quốc gia đã lên án chiến dịch quân sự này; một số nước, điển hình như Pakistan, thậm chí còn công khai ủng hộ Iran. Hơn nữa, vào thời điểm Tel Aviv ra đòn, Tehran vẫn đang tham gia các cuộc đối thoại ngoại giao, nên dễ hiểu khi các nước khác tỏ ra thông cảm với Iran và lo sợ rằng chính họ có thể trở thành mục tiêu tiếp theo. Nguy cơ một cuộc xung đột leo thang ngoài tầm kiểm soát cũng là điều khiến nhiều bên phải e ngại. Iran có vai trò quan trọng trong việc cân bằng ảnh hưởng giữa các cường quốc Đông và Tây, nên một cuộc đối đầu trực diện giữa Mỹ và Iran tiềm ẩn nguy cơ leo thang thành Thế chiến III. Do đó, Trung Quốc, Nga và hầu hết các quốc gia Hồi giáo đều có lợi ích trong việc ngăn chặn Iran thất bại. Đáng chú ý, khi Tehran đang nghiêm túc đàm phán với Washington mà Israel lại chủ động tấn công với sự hậu thuẫn của Mỹ, hành động của Tel Aviv không còn được coi là tự vệ chính đáng mà bị nhìn nhận như một hành vi gây hấn rõ ràng.

Tòa nhà tại Viện Khoa học Weizmann của Israel bị Iran đánh sập. Ảnh: Reuters

Tòa nhà tại Viện Khoa học Weizmann của Israel bị Iran đánh sập. Ảnh: Reuters

Không những thế, giới lãnh đạo Israel dường như đã phớt lờ những điểm yếu chí mạng ngay trên chính đất nước mình. Cụ thể, diện tích Israel chỉ bằng khoảng 1/80 so với Iran. Khoảng 60% lãnh thổ Israel là sa mạc Negev gần như không có người sinh sống, trong khi hơn 90% dân số lại tập trung trên vỏn vẹn 10% diện tích đất đai - những vùng đồng bằng đông dân cư và vô cùng dễ tổn thương trước các cuộc tấn công bằng tên lửa. Đây chính là một điểm yếu chiến lược rất nghiêm trọng của Israel. Không chỉ về mặt địa lý, hệ thống phòng thủ tên lửa Vòm Sắt của Israel trong nhiều năm qua hầu như không được nâng cấp đáng kể và vẫn bộc lộ nhiều điểm dễ bị xuyên thủng. Hệ thống này có thể tỏ ra hữu hiệu khi đối phó với các nhóm vũ trang như Hamas hay Hezbollah, nhưng Vòm Sắt cùng mạng lưới hầm trú ẩn của Israel không đủ sức chống đỡ hàng loạt tên lửa tân tiến với số lượng lớn mà Iran phóng tới. Thực tế, trong khi cuộc sống tại Iran hầu như không bị xáo trộn và những đợt không kích có chọn lọc của Israel ít ảnh hưởng đến sinh hoạt thường nhật, thì những trận mưa tên lửa từ Iran đã khiến đời sống thường ngày ở Israel bị đảo lộn nghiêm trọng.

Tòa nhà ở Israel bị hư hại nghiêm trọng trong đòn tấn công của Iran. Ảnh: GettyImages

Tòa nhà ở Israel bị hư hại nghiêm trọng trong đòn tấn công của Iran. Ảnh: GettyImages

Cuối cùng, có lẽ sai lầm lớn nhất của Israel là đã quên mất một nguyên tắc vàng của lịch sử chiến tranh: bên khơi mào xung đột thường sẽ là bên chuốc lấy thất bại. Những phân tích trên đây phần nào lý giải vì sao bên phát động chiến tranh thường khó giành thắng lợi cuối cùng. Trong “cuộc chiến 12 ngày”, người dân Iran đã nhanh chóng đoàn kết phía sau chính phủ của họ, một phần vì cảm nhận được mối đe dọa từ lập trường cứng rắn của Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu cũng như từ chính sách gây sức ép của chính quyền Donald Trump. Đồng thời, các cường quốc lớn cùng nhiều quốc gia trong khu vực, do quan ngại trước hành động quân sự của Israel, đã âm thầm hoặc công khai đứng về phía Iran. Ở chiều ngược lại, ngay tại Israel, dư luận trong nước sớm muộn cũng sẽ quay sang phản đối cái giá đắt đỏ của một cuộc chiến kéo dài. Ở tư thế là bên chủ động gây chiến, Israel còn dần đánh mất uy tín đạo đức và tính chính danh trên phương diện nhân đạo. Hơn nữa, việc Tehran sẵn sàng đàm phán vào thời điểm bị tấn công không chỉ khiến cộng đồng quốc tế bất ngờ, mà còn khiến mọi luận điểm biện hộ của Tel Aviv trở nên vô hiệu.

Thử hình dung nếu Iran cự tuyệt đối thoại rồi vẫn bị tấn công: quyết định đó rất có thể đã dẫn đến chia rẽ dân tộc, làm suy giảm khối đoàn kết thời chiến. Trái lại, việc Tehran kiên trì con đường ngoại giao giúp dư luận trong nước dễ đạt được đồng thuận hơn, và chính sự đoàn kết nội bộ ấy đã trở thành một lợi thế chiến lược to lớn cho Iran trong cuộc đối đầu này.

Đặng Hà

Nguồn CAND: https://cand.com.vn/binh-luan-quoc-te/nhung-duoc-mat-trong-cuoc-chien-12-ngay-i772635/
Zalo