Những chân trời trước mặt

Ngót 20 năm gắn bó với nghề báo, với riêng tôi, đề tài về vùng cao luôn là điều gì đó có sức lôi cuốn đến ám ảnh. Những nhân vật tôi đã gặp trong mỗi chuyến đi là những câu chuyện về thân phận, suốt tháng này qua năm khác sống trong tù túng, quẫn bách, nhiều khi đến bi kịch. Và, ở đó còn có cả những niềm vui, niềm hi vọng vươn thoát…

1. Khoảng chục năm về trước, cánh phóng viên thường trú tại Thanh Hóa như chúng tôi thường đếm số những chuyến ngược miền Tây, đến với huyện vùng cao Mường Lát làm thước đo, đánh giá cho sự tận tụy với nghề trong năm của mỗi người. Ngày ấy, đường lên Mường Lát còn nhiều cam go. Quãng đường từ thành phố Thanh Hóa đến dốc Cổng Trời dài hơn 200km nhưng có khi phải mất 2 - 3 ngày trời mới đến nơi vì mưa lũ, sạt núi. Từ thị trấn Hồi Xuân (huyện Quan Hóa) đổ ngược là đèo dốc dựng đứng và bạt ngàn lau lách, hiếm hoi lắm mới có một hàng nước tạm bợ, xiêu vẹo dựng chênh vênh bên sườn dốc… Khó khăn là thế nhưng tuyệt nhiên, tôi chưa thấy một đồng nghiệp nào than khó, kêu khổ sau mỗi chuyến ngược ngàn. Mỗi câu chuyện của họ viết ra đều như một chân trời mới, có sự cuốn hút, thôi thúc ghê gớm đối với đám phóng viên trẻ - những người chưa một lần đến với đồng bào vùng cao.

Tác giả bài viết trong một chuyến tác nghiệp tại vùng cao Thanh Hóa.

Tác giả bài viết trong một chuyến tác nghiệp tại vùng cao Thanh Hóa.

Có điều gì sau dốc Cồng Trời? Đó là những bản làng nằm cheo leo lưng chừng núi, là những phận người quanh năm còn lay lắt với đói nghèo, là những hủ tục còn như những chiếc cùm vô hình trói buộc, đè nén, nhiều khi đẩy con người đến bi kịch không lối thoát… Nhưng có lẽ, chuyện về số phận của những bé gái ở độ tuổi vị thành niên bị ép tảo hôn đã khiến tôi ám ảnh và day dứt nhiều nhất.

Năm 2018, trong một chuyến đi như thế, tôi đã ghé lại căn nhà nhỏ trống hua, trống hoác của vợ chồng Thao Thị Lau ở bản Chim, xã Nhi Sơn, huyện Mường Lát. Nhà của Lau nằm chênh vênh phía ta - luy âm tỉnh lộ 15C- sợi dây duy nhất nối huyện miền núi Mường Lát với miền xuôi, phía trên kia là dốc Cổng Trời. Trong căn nhà đầy gió nhưng thiếu tài sản, Lau kể: Mười lăm tuổi, em khát khao được đi học, được biết cái chữ và được làm cô giáo cắm bản như những cô giáo miền xuôi đã có lần về tận nhà vận động cha mẹ, cho chị em Lau được đến trường. Nhưng bố Lau - một người đàn ông thích rượu lại nghĩ khác. “Cái chữ có đổi được gạo không, có làm dịu cơn đói mùa giáp hạt không? Chúng nó không đi rẫy thì lấy gì để đút vào miệng mà đòi học chữ”. Vậy là ước mơ của Lau đành gác lại. 15 tuổi, Lau bị bắt làm vợ rồi làm mẹ.

Hai mươi tuổi, Lau đã kịp đẻ cho chồng 2 mặt con. Chuyện sinh nở của Lau cũng lạ. Hầu hết chúng đều được nhào nặn trong những cơn say của chồng nhưng từ khi lọt lòng đến bây giờ, chúng cũng chỉ ốm vặt vài đận, rồi thì cứ thế lăn lóc, hồn nhiên lớn, mặc cho mùa đông thiếu áo quần, tím tái lạnh. Nhà Lau cũng nghèo như nhà của bố mẹ và bà con trong bản. Dẫu những người phụ nữ như Lau có làm quần quật trên nương từ lúc con gà rừng gáy sáng đến khi mặt trời khuất sau ngọn núi đằng xa thì cũng không đủ ăn. Năm nào cũng thế, cứ mỗi mùa giáp hạt về, bản làng của Lau lại quay quắt, xác xơ trong đói. Cách duy nhất để vượt qua cơn đói là đi làm thuê mãi tận Pù Nhi, Tam Chung, Trung Lý, thậm chí theo người trong bản qua tận Lào mong kiếm thêm chút đỉnh đắp đổi qua ngày.

Chuyến đi công tác sau đó ít lâu, tôi có dịp ghé lại thăm Lau. Em bảo: “Em có đọc bài viết của anh rồi. Đau lắm đấy nhưng chả thay đổi được gì đâu anh ạ! Đàn ông ở đây bao đời nay đã vậy rồi! Chúng nó chỉ chịu vác dao, cuốc lên nương khi trong nhà không còn cái để ăn và đổi được rượu thôi. Mọi gánh vác lo toan cho con cái đều đổ tất lên đầu phụ nữ".

2. Trong một lần khác, nhân vật tôi tìm gặp là những đứa trẻ sau vụ ly hôn của những cặp vợ chồng trẻ người Mông. Ở chúng đều có chung một đặc điểm là đôi mắt buồn rượi và cái nhìn mông lung vô định. Chúng như những con chim non bị lạc khỏi tổ sau cơn giông tố của số phận.

Lâu Văn Tho, ở bản Pa Đén, xã Pù Nhi - mới chỉ lên 10 nhưng đã phải gồng mình để làm trụ cột, thay cha mẹ gánh vác mọi công việc trong nhà để nuôi bà, nuôi em. Ngày bố mẹ dắt nhau ra tòa ly hôn, Tho và 2 đứa em lít nhít bủng beo đã khóc đến kiệt sức. Tho và đứa em gái út về sống với bà nội, đứa em trai ít hơn nó 1 tuổi thì về ở với ông bà ngoại ở bản Pù Đứa, xã Quang Chiểu. Nhà bà nội nghèo còn hơn cả nhà nó khi xưa nên ngày ngày, cứ một buổi đi học, một buổi Tho lại lên núi kiếm củi, đặt bẫy chim về phụ bà nuôi em. Nhiều bữa nhớ đứa em thứ 2 quá, nó nói dối bà nội là đi học, định bụng sẽ trốn đi tìm thăm em nhưng với trí nhớ của Tho, Quang Chiểu xa lắm, nó lại không biết đường đành chạy lên đồi, ngồi khóc một mình.

Bà nội Tho bảo: “Lâu rồi chẳng thấy chúng nó về. Thi thoảng có gọi điện thoại hỏi han dăm câu rồi cúp máy. Cả năm trời không gửi được một đồng về cho con gọi là đồng quà tấm bánh. Nghĩ tội cho anh em nó!”. Lâu Văn Tho mò mẫm, dò từng bước chân kéo theo em đi xuống khe nước tự nhiên nằm ở ta luy dương QL15C tắm rửa. Nó có vẻ không muốn nghe tiếp câu chuyện giữa bà nội với người khách lạ. Hôm rồi mẹ gọi điện, hứa đến khi anh em nó nghỉ hè sẽ về thăm và đưa chúng sang Quang Chiểu thăm bà ngoại, chơi với đứa em đã hơn 1 năm nay không được gặp. Lời hứa ấy đã làm đứa em gái bé bỏng của Tho vui suốt mấy ngày.\

Một góc huyện vùng cao Mường Lát.

Một góc huyện vùng cao Mường Lát.

3. Mường Lát nay đã khác! Chỉ khoảng mươi năm trở lại đây đời sống của đồng bào vùng cao đã có nhiều thay đổi rõ rệt cả về vật chất lẫn tinh thần. Cùng với những chính sách ưu việt của Đảng và Nhà nước, đường giao thông được mở mang, tuyến QL15C được mở rộng, thảm nhựa góp phần thu hẹp khoảng cách giữa miền núi với vùng đồng bằng. Những nương mận tam hoa, đào rừng, các mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm đang từng ngày thay đổi tư duy trông chờ, ỷ lại của đồng bào dân tộc thiểu số, đưa đời sống kinh tế của bà con vùng cao thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu.

Nói về chuyện xóa đói, giảm nghèo của Nhi Sơn, ông Lê Hữu Nghị - Chủ tịch UBND xã Nhi Sơn hồ hởi: “Cây đào, mận tam hoa và các mô hình kinh tế đang mang lại niềm hi vọng mới cho bà con dân bản. Rồi đây khi đời sống kinh tế trở nên khấm khá, người Mông sẽ không còn nạn tảo hôn, không còn tư tưởng “ngửa mặt chờ mưa”, đám trẻ sẽ được đến trường đầy đủ và tiếp tục gieo những niềm hi vọng mới!”.

Miền Tây Thanh Hóa - vùng đất cũ nhưng với chúng tôi, mỗi chuyến đi vẫn luôn đầy ắp sự háo hức như đến với những chân trời mới. Đây cũng xem như là câu trả lời cho câu hỏi vì sao tôi và những đồng nghiệp khác vẫn bị vùng cao “mê hoặc”. Những năm gần đây, tôi đã không còn thấy xuất hiện nhiều những bài phóng sự, ghi chép hay những tuyến bài mang hơi hướng bi lụy, buồn thương trên mặt các tờ nhật báo. Thay vào đó là những tuyến bài tuyên truyền về chính sách, những mô hình kinh tế hiệu quả, những tấm gương điển hình trong tuyên truyền vận động bà con xóa bỏ hủ tục lạc hậu, giữ gìn an ninh nơi biên giới. Minh chứng cho điều này là những giải báo chí chất lượng cao từ Trung ương đến địa phương mà các đồng nghiệp của tôi khi chọn viết về đời sống mới của đồng bào, đã đạt được trong suốt những năm qua.

Ghi chép của Nguyễn Chung

Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/nhung-chan-troi-truoc-mat-10309044.html
Zalo