Những chân lý của thời đại từ Mùa thu cách mạng - Bài 1: Chiến thắng của một dân tộc mang trong mình khát vọng lớn
80 năm trước, buổi chiều ngày 2/9/1945, tại vườn hoa Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Hồ Chí Minh dõng dạc tuyên bố trước toàn thể quốc dân đồng bào và thế giới: 'Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập'. Đó không chỉ là lời khẳng định về mặt pháp lý mà còn là lời thề thiêng liêng, là khát vọng của cả dân tộc.
Độc lập, tự do - “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt chiều dài lịch sử
Chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ vang vọng trong lời Người, mà thấm sâu trong từng trang sử và khát vọng của Nhân dân Việt Nam suốt chiều dài lịch sử. Ít có quốc gia nào trên thế giới mà lịch sử lại đặt dân tộc ấy vào nhiều cuộc chiến “vệ quốc” như đất nước chúng ta. Không một ai muốn chiến tranh nhưng lịch sử đặt chúng ta vào tình thế phải “cầm gươm, cầm giáo”, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Và cũng ít có nơi nào, khát vọng dân tộc độc lập, Nhân dân tự do lại mạnh mẽ, bất khuất, kiên cường, không thể bị khuất phục như dân tộc chúng ta.
Đó là sự bất khuất của Hai Bà Trưng: “Một xin rửa sạch nước thù/Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng”; là hào khí của Bà Triệu “muốn cưỡi gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh giặc Ngô, giành lại giang sơn”; là quyết tâm cởi ách đô hộ ngàn năm của Ngô Quyền; là tuyên bố đanh thép của Lý Thường Kiệt: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” (Sông núi nước Nam vua Nam ở); là khí phách của Hưng Đạo Vương “Nếu bệ hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu thần rồi sẽ hàng”, là lời khẳng định: “Như nước Đại Việt ta từ trước/Vốn xưng nền văn hiến đã lâu” trong “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi…
Độc lập không phải là điều dễ dàng. Độc lập với đất nước chúng ta khi phải trải qua quá nhiều thử thách khắc nghiệt lại càng thiêng liêng, cao quý. Đó là nền độc lập được trả bằng máu xương của biết bao lớp người. “Dẫu cho một trăm cái thân của ta phải đem đốt ở đồng cỏ, một nghìn cái thân của ta phải đem bọc vào da ngựa, ta cũng vui lòng” (lời Hịch Tướng sĩ), “Tuốt gươm không chịu sống quỳ/Tuổi xanh chẳng tiếc, sá chi bạc đầu!/Lớp cha trước, lớp con sau/Đã thành đồng chí, chung câu quân hành” (Ra trận, Tố Hữu).
“Không chịu sống quỳ”, không chịu sống “kiếp ngựa trâu, nô lệ” đã trở thành “mã gen”, “sợi chỉ đỏ”, mạch nguồn xuyên suốt của lịch sử dân tộc. Khát vọng thoát khỏi xiềng xích áp bức, khát vọng được sống làm người tự do, được làm chủ vận mệnh của chính mình, với dân tộc Việt Nam, đó là khát vọng ngàn đời về một đất nước độc lập, hòa bình, không còn bóng ngoại xâm, không còn cảnh chia cắt đau thương.
Khát vọng ấy hun đúc nên bản lĩnh, bản sắc dân tộc Việt, từ câu nói khí khái của Trần Bình Trọng: “Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” đến lời khẳng định của Nguyễn Trung Trực: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”. Khát vọng ấy kết tinh nơi lòng yêu nước nồng nàn, để rồi “mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
Dưới chế độ thuộc địa, khát vọng lớn nhất của dân tộc Việt Nam là được sống trong một đất nước tự do, độc lập. Khát vọng ấy có trong huyết quản của lớp lớp thế hệ yêu nước - Hàm Nghi, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng… Khát vọng ấy nung nấu tâm can người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và chỉ đến Hồ Chí Minh - con người ba mươi năm bôn ba tìm đường cứu nước, khát vọng ấy mới thực sự có lối ra.
Hồ Chí Minh không chỉ có lý tưởng mà còn có phương pháp cách mạng đúng đắn, huy động được sức mạnh toàn dân. Chính Người là hiện thân của một trí tuệ biết “ấp ủ khát vọng lớn”, biết “hiện thực hóa khát vọng lớn”, biết nhân lên sức mạnh của toàn thể dân tộc, giương cao ngọn cờ “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi” - không mơ hồ, không lãng mạn, mà thực tế và có chiến lược. Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 là kết quả của khát vọng ấy - khát vọng của bao thế hệ được cụ thể hóa trong bản tuyên ngôn gửi tới cả thế giới với lời khẳng định: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Độc lập, tự do là ngọn cờ để toàn dân, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh nhất tề vùng lên tiến hành Tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám - một cuộc cách mạng “long trời lở đất”; đập tan ách thống trị của thực dân, phát xít; xóa bỏ chế độ phong kiến lỗi thời; đồng thời, mở ra bước ngoặt lịch sử trọng đại, đưa nước ta từ một xứ thuộc địa trở thành quốc gia độc lập, có chủ quyền; Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước. Và cũng chính khát vọng tự do, độc lập, hòa bình, thống nhất lớn lao ấy đã là sức mạnh để dân tộc ta đánh đuổi, đánh thắng hết thực dân “to”, đến đế quốc “mạnh”, để bảo vệ bằng được những giá trị thiêng liêng mà cả dân tộc hướng đến.
Khát vọng Tổ quốc hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu
“Cha ông ta ngày xưa ngã xuống để cho đời ta ngày sau đổi lấy hòa bình/Giữa khói binh ai cũng nguyện lòng hy sinh…Tạ ơn những người gìn giữ nước non Đại Việt nghìn năm trước/Tạ ơn người Cha già của chúng ta trên con đường cứu nước”, lời bài hát “Viết tiếp câu chuyện hòa bình” vẫn âm vang trên Quảng trường Ba Đình không chỉ nhắc nhở mỗi chúng ta về sự tri ân mà còn nhắc chúng ta phải làm gì để xứng đáng với sự hy sinh của cha ông? Phải viết tiếp trang sử hào hùng của dân tộc như thế nào?

Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu là khát vọng lớn của dân tộc Việt Nam. (Ảnh minh họa - Nguồn: Chinhphu.vn)
Lịch sử, thiên nhiên với những thử thách khắc nghiệt đã không cho ông cha có nhiều điều kiện để dựng xây đất nước. Nhưng khát vọng về một đất nước cường thịnh, thái bình là mong muốn cháy bỏng của muôn người. Đó là khát vọng của triệu trái tim đồng lòng; là khát vọng của hào khí hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, là khát vọng “Thái Bình” trong niên hiệu của Đinh Tiên Hoàng, là “sơn hà thiên cổ điện kim âu” của Vua Trần Nhân Tông, “Xã tắc từ nay vững bền/Giang sơn từ nay đổi mới” của danh thần Nguyễn Trãi.
Đặc biệt đó là mong muốn “xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, là lời di chúc thiêng liêng: “Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Là lời thề “…đem lại phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho đồng bào” mà đồng chí Lê Duẩn, thay mặt đồng bào cả nước đọc tại lễ tang Hồ Chủ tịch.
Với tinh thần độc lập và tâm thế tự lực, tự cường, tự tin và tự hào dân tộc, với khát vọng thái bình, thịnh trị trong kỷ nguyên mới, mục tiêu hàng đầu hiện nay của đất nước ta là thực hiện thành công hai mục tiêu 100 năm mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra: Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
“Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu, góp phần xứng đáng vào sự phát triển bền vững của thế giới và khu vực” - đó chính là khát vọng lớn của dân tộc trong kỷ nguyên mới.
“Hãy cùng nhau thắp lên ngọn lửa Đổi mới - Khát vọng - Hành động, vì một Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh, hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu vào năm 2045”, khẳng định của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, ngày 18/5/2025 chính là khát vọng lớn của toàn dân tộc, là lời hiệu triệu, là trách nhiệm của mỗi người đối với thế hệ trước và mai sau.

Nhà sử học Lê Văn Lan.
“Trong ký ức non nớt của một cậu bé 10 tuổi về ngày 2/9/1945, ấn tượng đọng lại vừa thiêng liêng, vừa hồn nhiên, trẻ con. Tôi chỉ nhớ hôm đó trời nắng chang chang, nắng như đổ lửa. Mẹ, chị và tôi chen đứng dưới bụi cây, hồi hộp theo dõi sự kiện trọng đại.
Đúng 14 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất hiện, bắt đầu đọc Tuyên ngôn độc lập. Hàng chục vạn Nhân dân đã có mặt kín cả vườn hoa (nay là Quảng trường Ba Đình), đồng thanh hô vang hưởng ứng “lời thề độc lập”. Chính vì thế, ngày ấy ban đầu được gọi là “Ngày thề độc lập”, về sau mới chính thức trở thành Ngày Quốc khánh.
Ngày 2/9/1945 đã mở ra kỷ nguyên độc lập của dân tộc. Đến hôm nay, trong thế kỷ XXI, với các thế hệ 8X, 9X và thế hệ trẻ đang và sẽ gánh vác vận mệnh đất nước, điều thiêng liêng hơn cả chính là tiếp nối truyền thống, xây dựng một nước Việt Nam dân chủ, hùng cường, văn minh”. - Nhà sử học Lê Văn Lan
(Còn tiếp)