Những bước tiến làm chủ công nghệ không gian

Nghị quyết số 57-NQ/TW (ngày 22/12/2024) của Bộ Chính trị đã xác định rõ phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là khâu then chốt.

Một tiết học của Khoa Khoa học vũ trụ và trái đất tại Trường đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội.

Một tiết học của Khoa Khoa học vũ trụ và trái đất tại Trường đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội.

Trong đó, các lĩnh vực mũi nhọn như khoa học vũ trụ và công nghệ viễn thám không chỉ mang tầm vóc chiến lược mà còn mở ra cơ hội để Việt Nam định vị lại năng lực quốc gia trong kỷ nguyên không gian. Tuy nhiên, để biến tầm nhìn thành hiện thực, Việt Nam cần một chiến lược phát triển nhân lực đồng bộ.

Việt Nam đã có những bước tiến đầu tiên trong làm chủ công nghệ không gian. Tuy nhiên, hành trình phát triển ngành khoa học vũ trụ và viễn thám vẫn đối mặt nhiều lực cản, đặc biệt là điểm nghẽn về nhân lực.

Nguồn nhân lực còn thiếu

Nguyễn Quang Minh, một học sinh chuyên Lý tại một trường trung học phổ thông nổi tiếng ở Hà Nội, từng là người say mê vũ trụ đến mức tự chế tạo kính thiên văn nhỏ, là thành viên tích cực tham gia vào các diễn đàn thiên văn... Nhưng đứng trước kỳ thi đại học vừa qua, Minh không nộp hồ sơ vào chuyên ngành vũ trụ hay viễn thám của bất kỳ trường nào mà chọn ngành điện tử của Đại học Bách khoa. Câu chuyện của Minh không bất ngờ.

Theo các chuyên gia, việc thu hút sinh viên giỏi theo đuổi lĩnh vực khoa học vũ trụ rất khó khăn vì đây là ngành học ít phổ biến, lộ trình nghề nghiệp chưa dễ tiếp cận đến đa số người dân so với các ngành “nóng” khác như công nghệ thông tin, bán dẫn, tài chính...

Việt Nam đã đạt những dấu mốc đáng tự hào trong ngành khoa vũ trụ, từ vệ tinh viễn thông Vinasat-1 năm 2008 đến vệ tinh quan sát Trái đất VNREDSat-1 (2013), rồi các vệ tinh nhỏ do Việt Nam tự thiết kế như PicoDragon, MicroDragon, NanoDragon. Các thành tựu đó khẳng định bước chuyển lớn của ngành này nhưng nhìn kỹ vấn đề mới thấy, Việt Nam vẫn chủ yếu dừng ở khâu khai thác và vận hành. Trong khi đó, công nghệ vũ trụ ngày càng giữ vai trò then chốt không chỉ về khoa học, mà còn với quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế số.

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị đã xác định rõ phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là then chốt để làm chủ công nghệ chiến lược. Quyết định số 1131/QĐ-TTg ngày 12/6/2025 của Thủ tướng Chính phủ cũng nhấn mạnh công nghệ hàng không vũ trụ là một trong 11 nhóm công nghệ chiến lược quốc gia. Nhưng trong thực tế, nhân lực của ngành vẫn đang “tụt hậu” cả về số lượng lẫn chất lượng.

Việc đào tạo và nghiên cứu vũ trụ vẫn còn thiếu sự tích hợp liên ngành và tư duy hệ thống. Sinh viên, kỹ sư hiện nay thường chỉ được tiếp cận một phần nhỏ trong chuỗi hoạt động, từ thiết kế, vận hành đến xử lý dữ liệu mà không có điều kiện để hiểu toàn diện một sứ mệnh không gian. Nguyên nhân một phần là do các cơ sở thực hành thực tế còn hạn chế, khiến sinh viên chủ yếu học lý thuyết, thiếu kinh nghiệm thực tế.

Với mức đãi ngộ không tương xứng cho nên có kỹ sư không thể gắn bó lâu dài, buộc phải tìm hướng đi khác. Đây không chỉ là câu chuyện của riêng một cá nhân, mà còn phản ánh nghịch lý, chúng ta mất nhiều công sức, nguồn lực đào tạo nhân lực chất lượng cao, nhưng lại chưa tạo được môi trường và chính sách đủ hấp dẫn để giữ chân họ.

Ở lĩnh vực viễn thám, nền tảng dữ liệu của hệ sinh thái vũ trụ cũng cho thấy lực lượng có quy mô và chất lượng còn mỏng.

Ông Trần Tuấn Ngọc, Cục trưởng Cục Viễn thám Quốc gia cho biết, độ tuổi trung bình của đội ngũ cán bộ viễn thám ở các cơ quan quản lý hiện đều trên 40 tuổi, trong khi các chương trình đào tạo, bồi dưỡng về công nghệ mới chưa được cập nhật thường xuyên. Điều này dẫn đến khoảng cách giữa trình độ nhân lực và tốc độ phát triển công nghệ. Nhiều cán bộ thành thạo quy trình quản lý truyền thống nhưng còn hạn chế trong tiếp cận và ứng dụng các công cụ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big data), điện toán đám mây hay các nền tảng phân tích ảnh viễn thám hiện đại.

Khó khăn khi xây dựng chương trình đào tạo bài bản

Theo các chuyên gia, công nghệ vũ trụ là lĩnh vực đòi hỏi thiết bị hiện đại, chi phí cao từ các phòng thí nghiệm mô phỏng, thiết bị viễn thám, trạm mặt đất, mô hình vệ tinh, cho đến phần mềm phân tích dữ liệu vệ tinh. Tuy nhiên, nhiều trường đại học và viện nghiên cứu trong nước vẫn chưa đủ điều kiện để trang bị đầy đủ, khiến việc giảng dạy khó truyền cảm hứng cho sinh viên một cách thực tế và sinh động. Trong khi đó, các trường đại học đào tạo ngành công nghệ vũ trụ, công nghệ viễn thám hiện chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Một số cơ sở như: Đại học Khoa học Tự nhiên của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Mỏ-Địa chất, Đại học Tài nguyên và Môi trường… đã có mã ngành và chương trình đào tạo chuyên sâu, nhưng số lượng sinh viên theo học ít, thậm chí có nhiều năm không đủ sinh viên nhà trường phải liên tục thông báo tuyển sinh bổ sung. Ngay cả Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ vũ trụ đến năm 2030, Việt Nam đặt mục tiêu đào tạo 300 chuyên gia và 3.000 kỹ sư. Tuy nhiên, đến nay, nguồn nhân lực hiện có, đặc biệt là các kỹ sư hệ thống có kinh nghiệm vẫn rất khan hiếm.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Anh Huy, Hiệu trưởng Trường đại học Tài nguyên và Môi trường cho biết, ngành trắc địa-bản đồ là nền tảng cho đào tạo viễn thám, nhưng thực tế mỗi năm chỉ tuyển sinh được khoảng 60 sinh viên. Con số này còn rất thấp so với nhu cầu phát triển của ngành.

Không gian là lĩnh vực đặc thù với mức độ bất định rất cao, đòi hỏi một tinh thần chấp nhận rủi ro. Tuy nhiên, môi trường nghiên cứu hiện nay chưa đủ để khuyến khích các ý tưởng đột phá, thử nghiệm. Ở các nước như Mỹ hay Nhật Bản, ngành không gian luôn gắn liền với những biểu tượng văn hóa, các hình mẫu lý tưởng về sự chinh phục, về khoa học tiên phong. “Hiện chúng ta vẫn chưa tạo ra một hệ sinh thái đủ để các bạn trẻ tin rằng, chuyên ngành khoa học vũ trụ là con đường có tương lai...”, Tiến sĩ Lê Xuân Huy, Phó Tổng Giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam chia sẻ.

Khoa học vũ trụ là khoa học liên ngành, đòi hỏi sự kết hợp giữa các chuyên gia về vật lý thiên văn, cơ khí, điện tử, tự động hóa, công nghệ thông tin, địa tin học... Tuy nhiên trong thực tế, lực lượng giảng viên, nhà khoa học trong lĩnh vực này tại Việt Nam còn mỏng, chưa thể bao phủ đầy đủ các mảng cần thiết. Điều này khiến việc xây dựng chương trình đào tạo bài bản, cập nhật quốc tế gặp khó khăn.

Trong lĩnh vực viễn thám, mặc dù tuổi trung bình khá cao nhưng cũng chưa đào tạo, thu hút được nguồn nhân lực kế cận. Ông Trần Tuấn Ngọc nhận định: “Nếu không có chiến lược đào tạo lại và trẻ hóa đội ngũ, nguy cơ tụt hậu trong năng lực quản lý và khai thác dữ liệu viễn thám sẽ ngày càng lớn”.

(Còn nữa)

ĐỨC HIẾU LIÊN

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/nhung-buoc-tien-lam-chu-cong-nghe-khong-gian-post911073.html