Những bước ngoặt trong lịch sử công trình Phủ Chủ tịch qua tài liệu lưu trữ

'Phủ Toàn quyền Đông Dương xưa và Phủ Chủ tịch ngày nay' là thước phim tua ngược dòng lịch sử của công trình kiến trúc bề thế từ khi còn là Phủ Toàn quyền Đông Dương cho tới Phủ Chủ tịch hiện nay từ nhiều nguồn tư liệu, bản vẽ bằng tiếng Pháp. Được in bằng 3 thứ tiếng: Việt, Anh, Pháp, cuốn sách góp phần giới thiệu tới bạn bè quốc tế về hình ảnh Thủ đô giàu giá trị lịch sử trong kỷ nguyên hội nhập sâu rộng.

Phủ Toàn quyền Đông Dương xưa và Phủ Chủ tịch ngày nay do Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I thực hiện và Nxb Mỹ thuật ấn hành, được Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I giới thiệu tới công chúng trong không khí hướng đến kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2.9 (1945 - 2025).

Cuốn sách Phủ Toàn quyền Đông Dương xưa và Phủ Chủ tịch ngày nay do Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I thực hiện. Ảnh: Đoan Túc

Cuốn sách Phủ Toàn quyền Đông Dương xưa và Phủ Chủ tịch ngày nay do Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I thực hiện. Ảnh: Đoan Túc

Trước tiên, để nói hình ảnh Phủ Toàn quyền Đông Dương có giá trị lịch sử, là bởi nó gắn với ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập. Điều được nhà sử học Dương Trung Quốc nhấn mạnh qua việc Bác Hồ lựa chọn Quảng trường Ba Đình làm nơi tổ chức Lễ Độc lập.

Theo ông Quốc, việc lựa chọn ấy không chỉ tính đến một không gian đủ rộng để tập trung đông đảo đồng bào đến tham dự, mà còn vì nó nằm kế ngay cửa Phủ Toàn quyền. Điều đó cũng mang ý nghĩa là việc “tuyên ngôn độc lập” báo hiệu sự ra đời của một nước Việt Nam độc lập và có chủ quyền, phá bỏ hoàn toàn chính quyền thực dân Pháp, thiết lập một nền độc lập, tự do hoàn toàn cho dân tộc Việt Nam.

Từ niềm mong muốn của Rousseau đến cái gật đầu của Doumer

Ngược trở lại lịch sử thời kỳ thuộc địa, công trình này thể hiện tầm nhìn về quy hoạch đô thị của Pháp dành cho Đông Dương. Ý tưởng xây dựng một Dinh Toàn quyền tại Hà Nội đã nhen nhóm dưới nhiệm kỳ của Toàn quyền Armand Rousseau.

Khi đến Hà Nội, Armand Rousseau ở một ngôi nhà nằm trong khu Nhượng địa, thiếu tiện nghi, chật chội hơn so với Dinh Toàn quyền ở Sài Gòn. Sự bất tiện này đã thôi thúc trong ông kế hoạch xây dựng một dinh thự mới.

Mặt trước Phủ Toàn quyền Đông Dương, bản vẽ của kiến trúc sư Lichtenfelder, 1900. Ảnh: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I

Mặt trước Phủ Toàn quyền Đông Dương, bản vẽ của kiến trúc sư Lichtenfelder, 1900. Ảnh: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I

Dù kế hoạch có như thế nào, bên cạnh vấp phải những ý kiến trái chiều về chọn địa điểm phù hợp, việc thực hiện một dự án lớn như vậy là không đủ khả năng tài chính. Bởi thời điểm đó, ngân sách Đông Dương thâm hụt nghiêm trọng. Do đó, ngôi nhà cũ tại khu Nhượng địa chỉ được cơi nới tạm thời. Phải đến cuối nhiệm kỳ của Toàn quyền Paul Doumer, việc xây dựng Dinh Toàn quyền Đông Dương mới chính thức được khởi công.

Năm 1902, bất chấp phản ứng của nhóm thực dân tư sản ở Nam Kỳ muốn giữ địa vị hàng đầu cho Sài Gòn, Paul Doumer vẫn quyết chọn Hà Nội làm thủ đô của Liên bang Đông Dương. Tại đây tập trung các cơ quan trung ương, hành chính, chuyên môn, các cơ sở văn hóa quan trọng và các trường đại học, viện nghiên cứu. Trong nhiệm kỳ của mình, Paul Doumer nuôi ý định xây dựng một Dinh Toàn quyền hoành tráng, xứng đáng với địa vị chính trị của nó. Đồ án quy hoạch và kiến trúc đã được Chánh Sở Công trình dân dụng Henri Vildieu đệ trình từ năm 1895.

Nhưng đến khi bắt tay vào thực hiện công trình, đồ án của Henri Vildieu không được sử dụng, thiết kế của kiến trúc sư Charles Lichtenfelder được ưu tiên lựa chọn. Tuy nhiên, để tập trung nguồn lực cho nhiều dự án hạ tầng khác, Paul Doumer đã trì hoãn việc này đến năm 1901.

Theo dự kiến ban đầu, Dinh sẽ được đưa vào sử dụng năm 1905. Nhưng cuối cùng bị trì hoãn đến tháng 5 năm 1907.

Sơ đồ mặt bằng tầng 1 do Lichtenfelder lập. Ảnh: Tư liệu

Sơ đồ mặt bằng tầng 1 do Lichtenfelder lập. Ảnh: Tư liệu

Bóc tách tinh túy nội – ngoại thất của công trình bề thế

Tài liệu đương thời không cho biết lý do cụ thể, nhưng yêu cầu cao về nội thất và trang trí có thể là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự chậm trễ này. Nội thất được bài trí theo phong cách vương giả, cầu kỳ. Cụ thể, phòng khánh tiết theo phong cách Louis XIV, phòng ăn lớn theo phong cách Phục hưng, phòng làm việc của Toàn quyền theo phong cách Đế chế Pháp.

Ban đầu, chính quyền Đông Dương liên hệ nhà thầu Maubert ở Paris để thực hiện toàn bộ phần trang trí và nội thất nhưng không thực hiện được do ngân sách bị thiếu hụt. Cuối cùng, việc đấu thầu đồ nội thất được tiến hành tại Hà Nội và đơn vị được lựa chọn là xí nghiệp thầu khoán Viterbo.

Áp phích quảng cáo của Công ty Ngói Đông Dương. Ảnh chụp từ sách

Áp phích quảng cáo của Công ty Ngói Đông Dương. Ảnh chụp từ sách

Trần các phòng và lò sưởi được trang trí bằng vữa giả đá với những họa tiết phức tạp và đa dạng. Trong khi đó, hoa văn mosaic cầu kỳ được áp dụng cho một số hành lang và sân thượng. Ước tính, diện tích vữa giả đá và mosaic phải thi công lần lượt là 2.000 và 1.000 mét vuông.

Do tính chất đặc biệt của công trình, năm 1903, Lichtenfelder đã gửi thư nhờ các đồng nghiệp của mình ở Pháp tiến cử cho Bộ Thuộc địa bốn người có tay nghề sang Đông Dương hướng dẫn đội ngũ thợ xây bản xứ thi công hạng mục này. Chính sự kỳ công trong nội thất đến ngày nay vẫn lưu lại dấu ấn đặc biệt trong lòng hậu thế. Điều đó góp phần giúp nơi đây được tạp chí Architecture Digest (Mỹ) bình chọn là một trong những dinh thự đẹp nhất thế giới năm 2017.

Bên cạnh vẻ đẹp của nội thất, cảnh quan xung quanh công trình cũng được nhà cầm quyền người Pháp chú trọng. Công viên Bách thảo hay Vườn Bách thảo này nay nằm tách biệt với Phủ Chủ tịch, vốn trước đây đã nằm trong ý định của nhà cầm quyền trước khi xây Dinh Toàn quyền. Ban đầu, đây là vườn thí nghiệm trồng cây nhiệt đới. Việc nghiên cứu quy hoạch được giao cho Edouard Brousmiche, người từng có thời gian giữ chức Giám đốc Thảo cầm viên Sài Gòn.

Quang cảnh bên trong Vườn Bách thảo được chụp từ thời Pháp thuộc. Ảnh: Tư liệu

Quang cảnh bên trong Vườn Bách thảo được chụp từ thời Pháp thuộc. Ảnh: Tư liệu

Dự án khởi công năm 1890. Theo dự kiến ban đầu, Vườn Bách thảo bao phủ một khu vực rộng lớn, diện tích khoảng 50 héc-ta, từ làng Ngọc Hà đến sát bờ Hồ Tây. Tuy nhiên, Vườn Bách thảo sau khi hoàn thành chỉ chiếm 12,5 héc-ta, nằm trên địa phận các làng Ngọc Hà, Hữu Tiệp và Khán Xuân. Ranh giới phía Tây dừng ở đê Parreau (nay là đường Hoàng Hoa Thám). Phía bên kia đường ra đến bờ Hồ Tây là vườn ươm cây của thành phố. Sau này, Vườn Bách thảo mới được sửa sang, mở rộng thêm.

Năm 1900, diện tích Vườn Bách thảo đạt 33 héc-ta với khoảng 3.000 loại thảo mộc, đa số nhập từ nước ngoài. Khi xây dựng Dinh Toàn quyền, người Pháp dự định quy hoạch cả vùng Cửa Tây thành Hà Nội thành một khu có dinh thự, văn phòng làm việc, quảng trường và công viên lớn (tức Vườn Bách thảo). Từ một vườn thực nghiệm, Vườn Bách thảo dần trở thành địa điểm dạo chơi, vãng cảnh. Mục đích khoa học của khu vườn dần đi vào quên lãng, đất đai trong vườn bị một số nhà cửa phụ của Phủ Toàn quyền xâm lấn.

Phủ Toàn quyền đầu thế kỷ XX. Nguồn: Tư liệu

Phủ Toàn quyền đầu thế kỷ XX. Nguồn: Tư liệu

Đổi tên thành Phủ Chủ tịch – Thể hiện tiếng nói Việt Nam trên trường quốc tế

Khi trở về Hà Nội vào sau ngày Giải phóng Thủ đô năm 1954, Bác Hồ được Trung ương Đảng, Chính phủ mời về ở và làm việc tại Phủ Toàn quyền xưa. Nhưng Người đã khước từ và đề nghị sử dụng tòa nhà làm nơi làm việc và tiếp khách của Chính phủ, Nhà nước Việt Nam.

Lý do Người đưa ra hết sức cao cả: “Trước kia đây là Phủ Toàn quyền, nhưng việc xây dựng nên công trình kiến trúc này là bàn tay của những người thợ Việt Nam. Bây giờ nhân dân được tự do, đất nước được độc lập, quyền làm chủ tòa nhà phải thuộc về nhân dân”. Từ đó, cái tên Phủ Chủ tịch được thay thế cho Phủ Toàn quyền.

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Đoàn đại biểu Chính phủ Liên Xô do Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng bộ trưởng Liên Xô A.I.Micaian dẫn đầu thăm Việt Nam, ngày 2.4.1956. Ảnh: Tư liệu

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Đoàn đại biểu Chính phủ Liên Xô do Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng bộ trưởng Liên Xô A.I.Micaian dẫn đầu thăm Việt Nam, ngày 2.4.1956. Ảnh: Tư liệu

Chính từ đây, công trình này đã ghi dấu ấn lịch sử của Việt Nam trên trường quốc tế thông qua các hoạt động đối ngoại, các cuộc gặp song phương. Trong suốt những năm từ 1954 đến 1969, đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã tiếp đón, hội đàm với hàng trăm đoàn nguyên thủ quốc gia, lãnh tụ Đảng các nước trên thế giới như: Trung Quốc, Liên Xô, Ấn Độ, Indonesia, Lào, Campuchia, Tiệp Khắc, Romania, Cộng hòa Dân chủ Đức, nhiều đoàn đại biểu, các tổ chức hữu nghị trên thế giới đến thăm Việt Nam.

Qua thời gian, nội thất và công năng của các phòng trong Phủ Chủ tịch cũng có nhiều thay đổi. Điểm nhấn phải kể đến Phòng Gương – căn phòng lớn nhất, sang trọng nhất, làm nơi diễn ra các sự kiện quan trọng và đón tiếp các chính khách, nguyên thủ quốc gia trên thế giới.

Cùng với đó là Phòng Vàng – nơi đón tiếp các đại sứ và tiếp khách quốc tế. Bên cạnh đó là Phòng Xanh mang nét thanh lịch, giản dị hơn trong phong cách trang trí, dùng làm nơi dành cho Phu nhân Chủ tịch nước gặp gỡ khách mời. Và Phòng Hội đàm là nơi diễn ra các cuộc hội nghị, hội đàm với các đoàn khách quốc tế.

Quang cảnh hội đàm giữa Chủ tịch nước Lương Cường và Tổng thống Pháp Emmanuel Macron tại phủ Chủ tịch, ngày 26.5.2025. Ảnh: Báo điện tử Nhân dân/Sơn Tùng

Với những giá trị to lớn về lịch sử và văn hóa, Phủ Chủ tịch và toàn bộ Khu Di tích đã được công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt quan trọng vào năm 2009. Vì vậy, việc bảo tổn và phát huy giá trị của di tích này không chỉ có ý nghĩa đối với việc giữ gìn di sản văn hóa mà còn góp phần quan trọng trong việc giáo dục truyền thống và định hướng phát triển cho các thế hệ tương lai của đất nước.

Đoan Túc

Nguồn Người Đô Thị: https://nguoidothi.net.vn/nhung-buoc-ngoat-trong-lich-su-cong-trinh-phu-chu-tich-qua-tai-lieu-luu-tru-49512.html
Zalo