Nhớ vị cà đắng giữa rừng Tây Nguyên
Đến buôn Đưng KNớ, một ngôi làng lâu đời của đồng bào Cơ Ho giữa mênh mông đại ngàn Nam Tây Nguyên, đâu đâu chúng tôi cũng bắt gặp những cây thân thảo lúp xúp cao ngang ngực, lá hình mác xanh rì, trổ bông xiu xíu màu tím nhạt. Đó là cây cà đắng, từ lâu không thể thiếu trong bữa ăn của người dân xứ cao nguyên, và nay trở thành nét ẩm thực đặc trưng của núi rừng thiết đãi khách lãng du.
1.Cà đắng vốn là loại cây mọc hoang dại bên suối, dưới thung, chân núi, sườn đồi, rồi mon men len vào những rẫy nương bạt ngàn xanh tốt của người dân. Cây ra trái quanh năm, quả bé cỡ đầu ngón tay, hình tròn, màu xanh lục sẫm, điểm xuyết đốm trắng, ruột có nhiều hạt, vị rất đắng, đắng đến rùng mình, nếu thực khách chưa quen, dễ nhăn mặt lắc đầu. Nhưng đã thưởng thức rồi, lại vương vấn cái hậu vị ngòn ngọt theo sau, thật khó quên.

Người dân hái cà đắng
Cà đắng tiếng Cơ Ho là blơn prìen. Một số tài liệu cho rằng xa xưa người dân bản địa đã lấy tên cà đắng để đặt tên cho ngọn thác thơ mộng nằm ngay cửa ngõ vào xứ sương hoa, thác Prenn (phiên âm theo tiếng Pháp), với mong muốn con cháu không quên món quà của núi rừng, của thần linh ban tặng. Đến khi người Pháp xây dựng cung đèo dẫn vào đô thị nghỉ dưỡng Đà Lạt, thì lấy tên ngọn thác đặt cho đèo, đèo Prenn. Tên thác Prenn đến nay vẫn còn nhiều lý giải khác nhau, nhưng sự liên hệ giữa ngọn thác hùng vĩ xứ sương mây với trái cà đắng quả là một giả thiết thú vị.
Những người già của buôn cho biết, từ xa xưa, những tộc người sống giữa núi rừng Tây Nguyên như Cơ Ho, Ê Đê, MNông… đã dùng cà đắng như một món ăn của tự nhiên. Họ hái trái từ rừng, chế biến thành các món ăn, rồi truyền tai nhau hương vị cùng nhiều công dụng của nó, sau đem về trồng trước nhà thành một loại thực phẩm. Tuy nhiên cây nhà thì trái to, màu nhạt hơn và vị đắng cũng giảm đi đôi chút so với cây cà rừng.
Đơn giản và dễ ăn nhất là cà sống với mắm ớt, hoặc luộc lên, cũng có thể cho vào bất cứ món ăn nào, dù chiên xào hay kho nấu… Công phu hơn thì đem chế biến với các nguyên liệu khác nhau thành nhiều món ngon. Cà đắng nấu với cá suối, cá khô; cà đắng nấu da trâu, cà đắng om với lươn ếch, canh cà đắng, rau rừng xào cà đắng…
2.Tôi vẫn nhớ hoài cảm giác lần đầu tiên được ăn cà đắng. Đó là một ngày nắng nhuộm vàng cả đại ngàn Đam Rông, tôi cùng những người bạn đồng hành được đồng bào MNông thiết đãi toàn món ngon của miền rừng. Măng Đam Rông, rau rừng, lá bép, và đặc biệt là món cà đắng nấu cá suối. Cá suối thì tôi đã thưởng thức nhiều, nên nhìn đĩa cá tôi chưa thấy gì khác biệt, có chăng chỉ tò mò về loại trái xanh xanh be bé nấu cùng.

Trái cà đắng
Cô gái K Dim nhiệt tình giới thiệu rồi múc cho tôi một thìa, cô nói ăn lần đầu nên dùng chút ít vậy thôi để cảm nhận. Trước hết là hương thơm, mùi thơm của cá quyện với mùi gia vị nồng nồng. Tôi thử một miếng nhỏ, đầu tiên là vị đắng lan từ đầu lưỡi vào sâu bên trong, thấm vào tận chân răng, khiến tôi khẽ nhăn mặt rùng mình nhưng ngay sau đó là vị ngọt của cá cùng hậu ngọt của cà bao trùm cả khoang miệng, tạo nên hương vị thật đặc biệt.
Thêm mấy lần tôi xin miếng nữa rồi miếng nữa khiến K Dim cứ tủm tỉm cười. Cô gái MNông dễ thương ấy còn giảng giải cho tôi công dụng của trái cà đắng, nào là giúp cơ thể khỏe mạnh dẻo dai, nào phòng ngừa nhiều loại bệnh liên quan đến tiêu hóa, phong hàn, xương khớp… Quả đúng là món quà đặc biệt mà thiên nhiên trao ban cho con người.
Vài lần sau đó tôi được thiết đãi các món ăn khác từ cà đắng. Trong đó món lâu đời nhất, thông dụng nhất có lẽ là cà đắng giã muối. Món ăn kết hợp giữa ba vị đặc trưng của đồng bào, cay, đắng, mặn giống như tính cách hào sảng, hồn hậu, chất phác của những người con sinh ra giữa núi rừng. Vị cay từ ớt, vị đắng từ cà và vị mặn mòi từ muối hòa quyện nhau để chống lại cái lạnh buốt giá của rừng sâu núi cao. Ớt chọn trái còn xanh đem giã với muối hột, cà đắng lấy trái non đập dập cho vào giã chung cho đến khi chúng quyện vào nhau tạo nên hương vị cay nồng kích thích vị giác, khứu giác. Món ăn này theo chân người dân trèo đèo lội suối, vượt rừng, lên nương, hiện diện trong những lúc khó khăn thiếu thốn lương thực, và giờ đây khi đời sống khấm khá hơn thì thành thứ gia vị để chấm với những thức khác trong bữa cơm hàng ngày.
Món đặc biệt nhất phải kể đến là cà đắng nấu da trâu. Ngoài hai thành phần chính là cà đắng và da trâu thì thứ gia vị không thể thiếu góp phần làm cho món ngon tròn vị là lá lốt. Cà đắng nấu với da trâu cho tới khi chín nhừ, tán nhuyễn cà rồi rắc thêm lá lốt, củ nén, ớt xanh. Món ăn dậy mùi thơm của lá lốt, vị cay nồng của ớt, vị đắng đậm của cà và đặc biệt là vị thơm bùi béo dai giòn của da trâu, tất cả quyện vào nhau tạo nên một mùi vị rất riêng, thoảng nghe phong vị của ngọn gió dong chơi giữa chốn đại ngàn.
Một món khác khá... tốn cơm là cà đắng om với lươn hoặc ếch. Món ăn mang cả hương vị của đồng bằng bát ngát lẫn cao nguyên mênh mang. Lươn hoặc ếch ướp gia vị cho thấm, thêm củ nén vào để dậy mùi thơm, cắt cà đắng vào đem nấu. Đến khi cà chín thì tán nhuyễn cà để vị bùi đắng hòa vào vị thơm ngọt của lươn ếch, rắc lên chút lá é là có thể thưởng thức.
Canh cà đắng nấu với nội tạng và phèo bò cũng là món khá đặc biệt, cũng có gia vị là củ nén, lá é nhưng cay hơn cà đắng om lươn ếch nhiều. Cách nấu thật đơn giản, nước đun sôi thì cho cà vào nấu chín rồi cho nội tạng, phèo bò vào, nấu cho thịt nhừ. Tán cà cho nhuyễn, cho thêm các loại rau rừng tùy thích, thêm lá é, lá nén, củ nén và ớt là có nồi canh nóng hổi chống cái lạnh của núi rừng.

Bếp nhà ở buôn Đưng KNớ
Đã thưởng thức thức quà của núi rừng này nhiều lần, nhưng mãi đến lúc vào buôn Đưng KNớ tôi mới tận mắt nhìn thấy cây và trái bé xíu, lúc lỉu trên cành, cùng những bông hoa phơn phớt tím. Nếu chỉ một vài cây dễ lẩn khuất giữa màu xanh điệp trùng của đại ngàn, nhưng chúng mọc rất nhiều, hầu như trước cửa, bên hiên nhà nào của buôn cũng có dăm cây lặng im khoe sắc.
Chúng tôi vào làng đã quá trưa, trời hửng nắng sau cơn mưa rả rích từ sáng. Trông thấy vài chị em đứng quanh hàng rào trước một ngôi nhà nhỏ xinh, chúng tôi sà vào hỏi han, mới hay các chị đang hái cà đắng cho bữa cơm chiều. Vạt cà tươi tốt thêm xanh sau cơn mưa, lúp lúp dưới lá là những trái non căng cứng. Chị KPớt hướng dẫn tôi hái những trái xanh, chị nói trái xanh ăn mới ngon. Gai đầy thân cho tới cuống, trong khi tôi trầy trật mãi mới hái được một trái vì sợ gai đâm thì chị thoăn thoắt liền tay. Vừa hái chị vừa liệt kê những món ngon nấu từ thứ trái này. Hỏi chị định nấu món gì cho bữa chiều, chị nói nấu thường ngày thì đơn giản thôi, cà đắng kho cá, tức là cà đắng ướp chung với cá rồi đem kho, và canh cà đắng, tức là cà đắng nấu với bất cứ loại rau nào có được trong vườn cũng thơm mát, ngọt lành, thêm đĩa cà đắng giã muối là đủ cho bữa ăn của gia đình.
Lúc chia tay, chị nhón cho tôi nhúm cà đắng mang về để chế biến món ăn tùy thích. Nhìn sợi khói trắng mỏng bếp nhà ai nhen lên, lượn lờ dưới vạt nắng chiều, chợt thèm lắm bữa cơm ấm nóng với hương vị cà đắng của núi rừng.