Nhân lực số là động lực thúc đẩy kinh tế số của TPHCM
Kinh tế số đang trở thành một động lực tăng trưởng then chốt của Việt Nam nói chung và TPHCM nói riêng. Bởi đây là một trong 3 trụ cột chính trong chuyển đổi số quốc gia, bên cạnh chính phủ số và xã hội số.
Trong bối cảnh đó, phát triển nguồn nhân lực số để phục vụ cho kinh tế số trở thành yếu tố then chốt để khai thác tối đa tiềm năng, đảm bảo tăng trưởng bền vững và cạnh tranh trong nền kinh tế số toàn cầu.
Nhân lực số “dẫn dắt” kinh tế số
Nguồn nhân lực số theo nghĩa hẹp là lực lượng lao động kỹ thuật chuyên nghiệp, trực tiếp thực hiện các sản phẩm, dịch vụ công nghệ thông tin, điện tử viễn thông, an toàn thông tin để phục vụ hoạt động công nghệ số (VAST, 2022). Còn theo nghĩa rộng, đó là những người có năng lực làm chủ các thiết bị công nghệ số, vận hành chúng trong quá trình sản xuất, kinh doanh và các hoạt động kinh tế - xã hội.
Nghĩa là nguồn nhân lực này không chỉ phục vụ trực tiếp cho lĩnh vực công nghệ thông tin mà còn phục vụ hoạt động về kinh tế số chuyên ngành như thương mại điện tử hay những lĩnh vực kinh tế phải ứng dụng công nghệ số.
Qua đó có thể thấy, một số đặc trưng nổi bật của nguồn nhân lực số cần quan tâm hiện nay là có khả năng làm chủ thiết bị công nghệ trong quá trình tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội, có khả năng thích ứng nhanh với môi trường lao động số và tiến bộ công nghệ và có khả năng sáng tạo cao trong công việc.
Đặc điểm này phù hợp với các khung năng lực số quốc tế. Từ năm 2022, nhiều tổ chức, đặc biệt ở châu Âu, đã ban hành các khung năng lực số như DigComp để xác định kỹ năng số cần thiết cho lao động.
Tại Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã bước đầu tích hợp chuẩn quốc tế với điều kiện thực tiễn, đưa ra khung năng lực số cho sinh viên. Tuy nhiên, khung năng lực số dành cho cán bộ, viên chức và lao động trực tiếp trong nền kinh tế số vẫn còn thiếu, đang trong quá trình nghiên cứu, định hình.
Hiện nay, các quốc gia đều tập trung vào 6 năng lực cốt lõi gồm sử dụng công nghệ số, khai thác thông tin và dữ liệu, giao tiếp và tương tác số, đảm bảo an toàn thông tin, tư duy phản biện và giải quyết vấn đề, đổi mới và sáng tạo.
Như vậy, nhân lực số cần kết hợp giữa kỹ năng cứng (công nghệ, dữ liệu, an ninh mạng) và kỹ năng mềm (tư duy số, đổi mới sáng tạo, học tập suốt đời). Điều này không chỉ bao gồm nhân lực “lõi” ICT mà còn mở rộng ra các ngành ứng dụng công nghệ số.
Nghiên cứu cho thấy, nguồn nhân lực số giữ vai trò dẫn dắt sự phát triển kinh tế số, thể hiện qua một số khía cạnh như thúc đẩy năng suất lao động nhờ tự động hóa, tối ưu hóa quy trình và quản lý vận hành. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực này sẽ hỗ trợ tạo ra mô hình kinh doanh mới như thương mại điện tử, kinh tế nền tảng, tài chính số hay công nghệ giáo dục.
Đó cũng là những định hướng liên quan đến sự lan tỏa của kinh tế số, để gia tăng tỷ trọng đóng góp của kinh tế số vào GRDP như TPHCM đang đề ra. Đồng thời, nhân lực số với sự hiểu biết và ứng dụng công nghệ thành thạo góp phần xây dựng Chính phủ số, doanh nghiệp số và xã hội số, cũng như đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng chống chịu, phục hồi của nền kinh tế trước các biến động, tăng năng lực quản trị công và tư, hỗ trợ ra quyết định dựa trên công nghệ…
3 giải pháp cho TPHCM
Về thực trạng, quy mô lực lượng lao động trong lĩnh vực này trước sáp nhập tại TPHCM là 4,7 triệu lao động (chiếm 55% nhân lực công nghệ thông tin cả nước), Bình Dương là 1,87 triệu và Bà Rịa - Vũng Tàu là trên 575.000 lao động. Trong đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo lần lượt là 85,2%, 23,5% và 80,8%.
Theo đánh giá chung, TPHCM (trước sáp nhập) là trung tâm nhân lực số lớn và chất lượng nhất, nhưng đối diện áp lực đáp ứng nhu cầu kỹ năng chuyên sâu. Cụ thể, năng suất lao động gấp 2,6 lần trung bình cả nước nhưng thiếu hụt kỹ năng số chuyên sâu (AI, bán dẫn, phân tích dữ liệu).
Bình Dương (trước sáp nhập) mạnh về quy mô và hạ tầng, nhưng chất lượng nhân lực số còn yếu (trên 83% nhân lực không có chuyên môn kỹ thuật; thiếu nhân lực chất lượng cao), cần cải thiện nhanh. Bà Rịa - Vũng Tàu (trước sáp nhập) mạnh về đào tạo và tỷ lệ lao động có trình độ, nhưng ứng dụng và kỹ năng số chuyên sâu vẫn là điểm yếu.
Trong bối cảnh đó, phát triển nguồn nhân lực số cần thực hiện đồng bộ các giải pháp ngắn hạn và dài hạn. Theo đó, có 3 giải pháp ngắn hạn.
Thứ nhất, cần rà soát, hợp nhất chính sách đồng bộ hóa vùng/khu vực và cơ chế phối hợp chung. Chúng ta đã có rất nhiều chiến lược mục tiêu nhưng nằm rời rạc 3 đơn vị trước đây.
Vì vậy, cần xây dựng khung điều phối chung giữa TPHCM - Bình Dương - Bà Rịa Vũng Tàu về đào tạo nhân lực số và phát triển kỹ năng tương lai. Song song đó, đồng bộ hóa chỉ tiêu đào tạo nhân lực số, cơ sở dữ liệu thị trường lao động, quy chuẩn đánh giá kỹ năng và chuẩn đầu ra tại các vùng/khu vực.
Thứ hai, đẩy mạnh chương trình đào tạo ngắn hạn, bồi dưỡng kỹ năng số cho lao động hiện có. Chẳng hạn, phối hợp với các trường đại học, cao đẳng và viện nghiên cứu trên địa bàn để triển khai các chương trình đào tạo chuyên sâu về AI, Big Data, Blockchain, bán dẫn, an ninh mạng và các công nghệ mới nổi khác.
Ngoài ra, cần hợp tác với các nền tảng học trực tuyến và trung tâm đào tạo để triển khai đào tạo theo hình thức linh hoạt, tiết kiệm chi phí. Thứ ba, thiết lập bản đồ nhân lực số và hệ thống dự báo cung - cầu lao động số theo ngành/lĩnh vực. Trong đó bao gồm phát triển nền tảng dữ liệu mở về nhân lực số, tích hợp từ cơ quan quản lý nhà nước, trường đại học, doanh nghiệp và trung tâm dịch vụ việc làm, ứng dụng AI và phân tích dữ liệu lớn để dự báo xu hướng kỹ năng và điều chỉnh chính sách đào tạo phù hợp.
Dài hạn hơn, chúng ta cần xây dựng hệ sinh thái giáo dục, đào tạo tích hợp kỹ năng số theo mô hình mở như thiết lập các trung tâm đổi mới sáng tạo và kỹ năng số vùng đặt tại TPHCM và các khu vực vệ tinh (Thủ Dầu Một, Vũng Tàu), hoạt động như “Hub” đào tạo, nghiên cứu và thực hành công nghệ số. Khuyến khích các trường đại học, cao đẳng liên kết với doanh nghiệp để phát triển chương trình đào tạo tích hợp kỹ năng số chuyên sâu theo mô hình Dual system (học đi đôi với hành).
Kế đến, phải phát triển chính sách thu hút và giữ chân nhân tài số trong nước và quốc tế như thiết kế chính sách visa lao động công nghệ cao, ưu đãi thuế thu nhập cá nhân, hỗ trợ nhà ở và phát triển môi trường làm việc sáng tạo cho chuyên gia công nghệ (như Nghị quyết 98), xây dựng mạng lưới chuyên gia Việt kiều trong lĩnh vực kỹ thuật số để kết nối và chia sẻ tri thức.
Giải pháp cuối cùng là xây dựng năng lực quản trị nhân lực số cấp vùng/khu vực. Một trong những nhận định của chúng tôi là nhân lực số ngoài chuyện đáp ứng còn phải dẫn dắt, tức là phải có các chuyên gia, nên cần phải đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước có kiến thức về dữ liệu, trí tuệ nhân tạo và hoạch định chính sách dựa trên bằng chứng.
Đặc biệt cần hình thành các trung tâm phân tích chính sách nhân lực số nhằm phục vụ việc ra quyết định nhanh, chính xác và có dự báo dài hạn.