Nhận diện văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Những năm qua, chúng ta đã cố gắng vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa và đã đạt được những kết quả nổi bật cả về lý luận và thực tiễn. Để hiểu kỹ hơn, toàn diện hơn và gắn liền với việc lý giải chức năng điều tiết của văn hóa, cần làm rõ nội dung nhận diện văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm lớp học bổ túc văn hóa của bà con lao động Khu tập thể Lương Yên, Hà Nội, ngày 27 tháng 3 năm 1956. Ảnh tư liệu

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm lớp học bổ túc văn hóa của bà con lao động Khu tập thể Lương Yên, Hà Nội, ngày 27 tháng 3 năm 1956. Ảnh tư liệu

Triết lý văn hóa Hồ Chí Minh và những hàm nghĩa hiện đại

Một là, ngay từ năm 1943, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa có ý nghĩa bao quát nhất về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, tr.458).

Trong nhận diện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra các thành tố chủ yếu của văn hóa, cả văn hóa tinh thần và văn hóa vật chất, mục tiêu của văn hóa, hai đặc trưng sâu nhất của văn hóa là “sáng tạo và phát minh”, các phương thức sử dụng văn hóa của con người vì mục đích cuộc sống.

Song, có một nội dung rất quan trọng mà dường như một số công trình nghiên cứu chưa chú ý tìm hiểu vì chỉ tập trung vào vế thứ nhất của định nghĩa trên. Đó là nội dung: “Nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Chữ “thích ứng” thể hiện một nhận thức rất sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa. Để sinh tồn và vì mục đích cuộc sống, như khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh, loài người sáng tạo ra văn hóa, đồng thời để đáp ứng nhu cầu và đòi hỏi của sự sinh tồn, văn hóa giúp con người “thích ứng” với cuộc sống.

Rõ ràng là, thích ứng chính là năng lực điều tiết của văn hóa trước các nhu cầu và đòi hỏi của đời sống, có nghĩa là văn hóa giúp con người tạo nên sự hài hòa, tránh những va đập, xung đột, mâu thuẫn, lệch lạc giữa con người với đời sống, tức là với thiên nhiên, với xã hội, với cộng đồng, với người khác và thường xuyên với chính mình. Sự “thích ứng” thực chất là thể hiện cụ thể vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội.

Hai là, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để xây dựng nền văn hóa dân tộc theo nghĩa bao quát nhất, cần phải tập trung vào 5 nội dung sau: “1. Xây dựng tâm lý: Tinh thần độc lập tự cường; 2. Xây dựng luân lý: Biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng; 3. Xây dựng xã hội: Mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội; 4. Xây dựng chính trị: Dân quyền; 5. Xây dựng kinh tế” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr. 458).

Qua nhận diện này, chúng ta thấy văn hóa bao trùm toàn bộ các lĩnh vực của đời sống dân tộc, từ việc xây dựng tinh thần dân tộc, giáo dục đạo đức xã hội, thực hiện chính sách xã hội và bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội, xây dựng thể chế chính trị dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của người dân tới sự phát triển kinh tế, tạo lập nền tảng vật chất cho xã hội.

Theo cách nhận xét của GS Cao Xuân Huy, hướng tiếp cận về văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tổng hợp, liên ngành, kết hợp giữa tư duy “chủ toàn” của phương Đông với tư duy “chủ biệt” của phương Tây. Đặc trưng nổi bật của cách tiếp cận này là phát triển định nghĩa về văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định văn hóa lan tỏa thẩm thấu sâu vào các lĩnh vực của đời sống để hình thành, phát triển, định hình nên ý thức tự giác, bản lĩnh, cốt cách, tự làm chủ của dân tộc, tạo lập nền tảng đạo đức, hình thành các quan hệ nhân văn trong ứng xử giữa con người với tự nhiên, xã hội và với chính mình.

Từ tầm nhìn đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra văn hóa vừa làm cho con người “biết hưởng hạnh phúc mà mình được hưởng”, vừa phải trực tiếp vào cuộc “phò chính trừ tà” “sửa đổi thói hư, tật xấu”.

Hai nhiệm vụ trên chính là vai trò điều tiết của văn hóa. Thực sự sâu sắc, khi nói đến “công việc đối với con người” trong Di chúc của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh “đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.617). Có nghĩa là, đây là cuộc đấu tranh chống lại cái phản giá trị, phản văn hóa để nuôi dưỡng các giá trị văn hóa.

Như khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là “cuộc chiến đấu khổng lồ”, trong đó vừa có sự đấu tranh, vừa là một quá trình điều tiết vĩ đại, gian nan, kiên trì, thường xuyên, để vừa chống, vừa xây. Chỉ đấu tranh chính trị mà không điều tiết bằng văn hóa, thông qua văn hóa, sự nghiệp trên khó đi tới kết quả bền vững, có chiều sâu. Hiện nay và nhiều năm sau, chúng ta đang đứng trước thách thức đó.

Ba là, “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, một luận điểm nổi tiếng về vai trò văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là quan điểm khẳng định vai trò khai sáng của văn hóa, có nghĩa là, văn hóa phải giữ vai trò định hướng, điều chỉnh sự vận động, biến đổi, biến động của xã hội trên các lĩnh vực trọng yếu, như chính trị, kinh tế, xã hội để dẫn dắt cuộc sống phát triển đúng hướng và phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử. Thực tế cho thấy, cuộc sống luôn vận động, biến đổi không ngừng, thậm chí có những biến động khó lường, điều đó không đồng nghĩa với sự phát triển, “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” chính là sự điều chỉnh và định hướng để tạo nên sự phát triển và giảm thiểu những biến động phức tạp, tiêu cực có thể dẫn tới sự bất ổn hoặc phản phát triển.

Khi đại thi hào Nguyễn Trãi viết trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo rằng: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”, thì không chỉ nói về chiến thắng của Việt Nam về chính trị, mà còn hàm chứa trong đó việc khẳng định vai trò, sức mạnh nội sinh của nhân cách dân tộc, của các giá trị văn hóa Việt Nam.

Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc ngay trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chính là Người đã nhìn nhận cuộc sống ở tầm nhìn văn hóa, và cụ thể là Người đứng từ chức năng điều tiết của văn hóa để “sửa đổi” lề lối, tác phong cho cán bộ trong hệ thống chính trị đang hình thành nhưng đã xuất hiện những cái xấu, sự quan liêu và xa dân - những biểu hiện cụ thể của phản văn hóa, thiếu văn hóa.

Như vậy, ngay trong luận điểm “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” đã hàm chứa bốn yếu tố không tách rời nhau: Khai sáng, định hướng, dẫn dắt và điều tiết.

Qua sự trình bày trên, chúng ta đã từng bước nhận rõ vai trò điều tiết sự vận động và phát triển xã hội của văn hóa, như sự khẳng định ngắn gọn, cô đúc của Tổng Giám đốc UNESCO: “Phát triển cần thừa nhận văn hóa giữ vị trí trung tâm và vai trò điều tiết xã hội”. Song, có một câu hỏi được đặt ra là: Sự điều tiết đó lấy từ đâu, bằng nhân tố gì trong bản thân văn hóa? Lời giải đáp sẽ được cố gắng tìm trong cấu trúc nội tại của văn hóa.

Tính kế thừa, biến đổi và vai trò điều tiết xã hội của văn hóa

Nói đến văn hóa là nói đến các sản phẩm và các hoạt động văn hóa của con người trong tiến trình tồn tại, phát triển kể từ buổi bình minh của lịch sử loài người cho đến ngày hôm nay và mãi mãi về sau. Các sản phẩm văn hóa đó được phân loại có tính chất tương đối, bao gồm văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể.

Song, tính tuyệt đối của nó là: Các sản phẩm văn hóa do con người tạo ra luôn là vô tận, ngày càng phong phú, đa dạng, không bao giờ có sự đứt đoạn hoặc kết thúc và nhìn theo chiều dọc lịch sử, chúng luôn luôn biến đổi, luôn xuất hiện những sản phẩm mới, lạ, vừa kế thừa lại vừa phủ định cái có trước. Đặc điểm đó diễn ra trong toàn bộ lịch sử các nền văn hóa, từ những biểu hiện văn hóa nhỏ nhất đến những công trình, thành tựu văn hóa lớn, vĩ đại. Có thể thấy điều này qua một số dẫn chứng trong văn hóa đời thường của người Việt như sau:

Thời xa xưa, người Việt đóng khố, nhuộm răng đen, xăm mình. Đến thời phong kiến, các cụ đội khăn xếp, mặc áo dài the, người có học thì viết chữ Hán, rồi chữ Nôm, ứng xử và dạy dỗ con cháu theo đạo Phật rồi chuyển sang đạo Khổng (Nho giáo). Đến thời Pháp thuộc, người ta cạo răng đen thành răng trắng, mặc áo dài tân thời, thay guốc mộc bằng guốc, giày cao gót...; một bộ phận người dân thành thị thì mê Thơ mới, tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn, bàn chuyện yêu đương tự do, chống lễ giáo phong kiến, khóc cho “đồi thông hai mộ”...

Ngày nay, các nét văn hóa đã thay đổi, người dân mặc trang phục hiện đại, sử dụng máy vi tính, điện thoại thông minh, bàn chuyện toàn cầu hóa, tiếp cận với khoa học - công nghệ hiện đại, cách mạng công nghiệp lần thứ tư... Một dẫn chứng khác là lịch sử nước ta đã tạo ra khoảng 8.000 lễ hội truyền thống, và ngày nay, còn sự xuất hiện và phát triển các lễ hội mới, chưa kể một loạt lễ hội của nước ngoài đang “nhập khẩu” khá ồ ạt vào Việt Nam.

Dù có biến đổi nhanh, mạnh như thế nào thì người Việt Nam vẫn giữ được cốt cách của người Việt, khó trộn lẫn với các dân tộc khác, kể cả khi người Việt sống ở nước ngoài. Nhà văn Nguyễn Đình Thi đã quan sát điều đó và gọi là “khoảng trời xanh” của cộng đồng người Việt. Phải chăng, trong sự biến đổi không ngừng của các sản phẩm và hoạt động sáng tạo văn hóa có tồn tại một yếu tố cốt lõi ẩn sâu, làm nên sự định hình của một nền văn hóa. Đó là bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc, quốc gia.

Bản sắc đó được tạo thành bởi nhu cầu tinh thần, tâm thức của người Việt Nam. Cái định hình ẩn sâu trong các sản phẩm và hoạt động sáng tạo văn hóa đó như một sợi chỉ xuyên suốt thời gian và không gian, mang tính chất rất bền vững.

Ví dụ như vai trò, địa vị của người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử văn hóa. Có hàng nghìn, hàng vạn các loại sản phẩm văn hóa thể hiện hết sức đa dạng hình tượng người phụ nữ, nhưng mẫu số chung của các sản phẩm có giá trị văn hóa là sự khẳng định, ngợi ca, tôn vinh, bảo vệ hình tượng đẹp của phụ nữ Việt Nam, ngay cả khi thể hiện đến cùng nỗi đau của người phụ nữ, tiêu biểu như Truyện Kiều của Nguyễn Du. Quan điểm và tình cảm đó nằm trong hệ giá trị của văn hóa Việt từ ngàn xưa cho đến hôm nay và cả mai sau...

(Còn tiếp)

GS.TS ĐINH XUÂN DŨNG

Nguồn Văn hóa: http://baovanhoa.vn/van-hoa/nhan-dien-van-hoa-trong-tu-tuong-ho-chi-minh-184949.html