Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Nghệ thuật kể chuyện của lòng trắc ẩn

Sương Nguyệt Minh là một trong những cây bút truyện ngắn tiêu biểu của văn học Việt Nam đương đại. Với nền tảng trải nghiệm sâu đậm trong quân ngũ, ông thường xuyên trở đi trở lại với đề tài chiến tranh, hậu chiến và đời sống nông thôn, đặc biệt là thân phận con người trong bối cảnh đổi thay dữ dội.

Hai truyện ngắn “Mười ba bến nước” và “Người ở bến sông Châu” tiêu biểu cho phong cách văn xuôi của ông vừa giàu chất nhân văn, vừa thấm đẫm tính hiện thực, đồng thời mang những tìm tòi độc đáo về nghệ thuật kể chuyện.

Nếu “Mười ba bến nước” khắc họa số phận bi kịch nhưng kiêu hãnh của người phụ nữ làng quê trong vòng xoáy định kiến, thì “Người ở bến sông Châu” lại là bản tình ca da diết buồn về chiến tranh, tình yêu và ký ức.

Qua hai tác phẩm, người đọc có thể nhận ra diện mạo văn chương Sương Nguyệt Minh: nhân ái, đau đáu với phận người, đồng thời giàu hình tượng gợi cảm. Trong hai truyện ngắn này, Sương Nguyệt Minh kiến tạo một mô-típ sông nước vừa là không gian nghệ thuật, vừa là cấu trúc của số phận khi bến đò, dòng chảy trở thành trục dọc để nhân vật “sang bờ” không chỉ về địa lý mà còn về đạo đức, tình cảm và định mệnh.

Nhà văn Sương Nguyệt Minh.

Nhà văn Sương Nguyệt Minh.

Những phận đàn bà trong vòng xoáy định mệnh

Truyện “Mười ba bến nước” mở ra bằng một tình huống đặc biệt khi người phụ nữ phải đi lấy vợ mới cho chính chồng mình. Câu chuyện tưởng như nghịch lý ấy lại phản chiếu hiện thực nghiệt ngã của những phận đàn bà nông thôn khi họ bị cuốn vào guồng quay định kiến “mười hai bến nước” tượng trưng cho số phận trôi nổi.

Nhân vật chính tự nhận mình “khốn nạn hơn những người đàn bà khác... tôi những mười ba bến nước”, nhấn mạnh bi kịch chồng chất trong gia đình chịu nỗi đau chất độc da cam. Tuy nhiên, ẩn sâu trong dòng kể không chỉ là nỗi buồn thân phận, mà còn là sự chịu đựng, hy sinh và tình thương. Người phụ nữ ấy vừa đau đớn, vừa kiêu hãnh khi chấp nhận làm bà mối cho chồng lấy vợ khác, hành động đặt hạnh phúc người khác lên trên bản thân. Đó chính là giá trị nhân văn lớn của tác phẩm khi ca ngợi sức mạnh chịu đựng của người phụ nữ Việt Nam.

Cốt truyện hấp dẫn được triển khai như một dòng hồi ức nhiều lớp, mở đầu bằng biến cố “lấy vợ cho chồng”, rồi lần lượt tái hiện những mốc quan trọng: sinh nở ngoài đồng, cảnh sang sông mờ sương, và cuối cùng là “bến nước thứ mười ba” đầy huyền ảo. Mỗi lần sang sông là một biểu tượng cho sự chuyển dời số phận. Cấu trúc ấy tạo nên nhịp điệu luân hồi, khiến người đọc vừa thương cảm, vừa bị cuốn hút bởi sự chồng chất của nghịch cảnh.

Sương Nguyệt Minh sử dụng nghệ thuật độc đáo với giọng kể ngôi thứ nhất của người phụ nữ. Lời kể giản dị, mộc mạc, nhiều khi thô ráp, nhưng chính sự mộc mạc ấy lại làm tăng sức lay động. Ông cũng khéo dùng hình tượng bến nước, con đò, dòng sông như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, vừa gắn với đời sống nông thôn, vừa mang tính biểu tượng về số phận, luân hồi, định mệnh.

Khác với “Mười ba bến nước”, truyện “Người ở bến sông Châu” là bản tình ca hậu chiến, tập trung vào tình yêu dang dở của dì Mây và chú San, gắn với bối cảnh chiến tranh và hậu chiến. Mối tình ấy trải qua bom đạn, xa cách, cuối cùng gặp lại thì đã muộn màng. Truyện triển hiện một kiểu “bi kịch dịu dàng”, ngày dì Mây, nữ y sĩ Trường Sơn khoác ba lô trở về thì đúng lúc chú San đi lấy vợ, và người cha già chèo đò chở chính “người yêu cũ của con gái mình” đi sang bờ hạnh phúc khác.

Nội dung nhân văn nằm ở chỗ tác phẩm không chỉ kể một mối tình riêng, mà còn phản chiếu bi kịch chung của một thế hệ khi tình yêu bị chiến tranh chia cắt, hạnh phúc bị trì hoãn, ký ức trở thành vết thương. Dì Mây, người phụ nữ tật nguyền bởi mảnh đạn, vẫn cất tiếng ru da diết bên sông, trở thành biểu tượng cho nỗi nhớ, cho khát vọng được yêu thương và được sống khiến truyện hấp dẫn như một bản tình ca được kể bằng văn xuôi. Người đọc bị cuốn vào mạch kể, đồng cảm với nỗi đau và sự dằng dặc của thời gian.

Giọng văn của Sương Nguyệt Minh giàu nhạc tính, nhiều đoạn giống như thơ: “Đất trời như giao hòa một màu bàng bạc. Muôn triệu vì sao chi chít, nhấp nháy, rắc đầy xuống bến sông”. Nhạc tính ấy hòa quyện với tình cảm, khiến truyện vừa là hồi ức, vừa là khúc bi ca.

Những câu văn đẫm mùi phù sa và sương khói huyền ảo

Hai truyện ngắn “Mười ba bến nước” và “Người ở bến sông Châu” cho thấy một Sương Nguyệt Minh vừa gân guốc trong cảm hứng hiện thực, vừa mơ hồ bảng lảng một thứ sương khói huyền ảo dân gian, vừa quyết liệt cất tiếng vì phận người, vừa thủ thỉ như một lời ru bên bến nước.

Hạt nhân của cả hai tác phẩm, theo tôi, là một quan niệm nhân văn lặng lẽ nhưng bền bỉ khi con người có thể bị số phận giằng giật, bị thời cuộc, chiến tranh và nghèo đói vặn xoắn, nhưng họ vẫn có thể tự cứu rỗi nhau bằng lòng trắc ẩn, bằng những cử chỉ nhỏ mà cao thượng của đời thường.

Sương Nguyệt Minh đã kiến tạo những cốt truyện hấp dẫn bằng cách đặt nhân vật vào các “điểm gãy” giàu kịch tính, nơi truyền thuyết chạm vào hiện thực, nơi bờ bến địa lý hóa thành bờ bến tâm lý, và nơi quá khứ trỗi dậy xen vào hiện tại, khiến mỗi cuộc sang sông trở thành một lần vượt đoạn đời.

Từ phong cách nói trên, ta hãy thử so sánh Sương Nguyệt Minh với ba nhà văn cùng thời khá nổi tiếng là Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Nguyễn Ngọc Tư để xem sự tinh diệu trong văn phong của mỗi người.

Với Nguyễn Huy Thiệp, tự sự thường mang giọng mỉa mai trí tuệ, phá vỡ uy quyền và diễn ngôn bằng những trang văn lạnh lùng, sự nhân văn của ông nhiều khi là nghệ thuật nhân văn “trần trụi”, phơi phóng sự xấu xí để độc giả phải ngẫm nghĩ. Sương Nguyệt Minh, trái lại, ít “đốt vía” người đọc bằng mũi dao trào lộng, ông bê nguyên sinh quyển nông thôn và chiến tranh vào trang viết theo lối “dâng lên” những tín hiệu, để cái thiện không được hô gọi mà tự chảy.

So với Tạ Duy Anh, người thường dựng những “dị bản” hiện thực như cơn ác mộng, đẩy cái ác đến biên độ tượng trưng thì Sương Nguyệt Minh thân thiện hơn với tín ngưỡng dân gian và “ảo linh” nông thôn. Cái ác nếu có không đến từ “quỷ dữ” mà từ tính vô minh, lời đồn, định kiến. Vì thế, lối kết của Sương Nguyệt Minh thường để mở, “để dành” cho lòng người một khoảng thao tác, khác với những đoạn kết như sấm sét của Tạ Duy Anh.

Bìa cuốn “Mười ba bến nước” của nhà văn Sương Nguyệt Minh.

Bìa cuốn “Mười ba bến nước” của nhà văn Sương Nguyệt Minh.

Còn nếu đặt cạnh Nguyễn Ngọc Tư, ta thấy cùng là thứ văn xuôi của sông nước, cùng thích những nhân vật “đứng bên bờ”, lặng lẽ và thương nhiều hơn nói. Sông nước miền Tây của Nguyễn Ngọc Tư thường phẳng lặng và buồn, dạt dào phù sa huyền ảo; còn nước sông Châu của Sương Nguyệt Minh vừa có “mùi hương cỏ mật” vừa gầm gừ “đỏ quạch” vết tích chiến tranh.

Nhân vật đàn bà của Nguyễn Ngọc Tư hay tủi phận mà cắn răng chịu, đôi khi buông xuôi để bơi theo nước; còn người phụ nữ “Mười ba bến nước” chọn kiểu can đảm “ngược dòng”, tự đưa mình qua “cửa ải” cuối cùng để cứu rỗi một gia đình và cao trào truyện không phải cú sốc tình tiết, mà là cú “tự vượt” của nhân vật và độc giả cảm thấy đã đi cùng họ, không phải để nghe kể chuyện, mà để “sang bờ” cùng họ.

Khi so sánh như vậy, ta thấy thêm một phẩm chất thẩm mỹ Sương Nguyệt Minh là “biết dừng”. Ông không dồn câu chữ đến bờ mép bi lụy, ông tin vào tiết chế, để cho một mái tóc “bồng bềnh như mây”, một cành loa kèn, một tiếng gọi “lỡ đò rồi!” tự phát sáng chiều sâu tâm lý.

Cái “đẹp” trong hai truyện “Mười ba bến nước” và “Người ở bến sông Châu” là cái đẹp của sự đúng mực, một thẩm mỹ không cầu kỳ mà vẫn giàu thủ pháp, một giọng điệu không ồn ào mà vẫn tạo dư vang. Chính sự đúng mực này làm nên khác biệt với tinh thần “đẩy biên” của Tạ Duy Anh, hay “đốt nóng lưỡi dao nhận thức” của Nguyễn Huy Thiệp, hay “ngấm buồn” của Nguyễn Ngọc Tư.

Đến đây, có thể khép lại bằng một kết luận thực tiễn khi ngẫm về phận người Việt sau chiến tranh, Sương Nguyệt Minh chọn đi trên con đường “điềm tĩnh hóa” những ám ảnh, biến chúng thành chất liệu để rèn luyện lòng trắc ẩn cộng đồng.

Hai truyện ngắn đều lấy “bến” làm tâm điểm, nhưng mỗi bến lại mở ra một phương trời nhân văn, bến của người đàn bà dám “tái cấu trúc” hạnh phúc của chồng và gia đình chồng bằng cách chịu phần thiệt thòi nhất; bến của người cha biết “chở nước mắt mình” để con gái được nhẹ lòng. Ở đó, nhân vật chính chẳng phải “anh hùng” theo nghĩa cổ điển, họ là người thường nhưng chính cái thường ấy, khi gặp thử thách, lại hé lộ phẩm chất phi thường.

Và, như thế, văn xuôi Sương Nguyệt Minh với những câu chữ mang mùi phù sa, với những biểu tượng bản địa, với cấu trúc “sang sông” giàu kịch tính mà giàu độ lặng đã tạo nên một đóng góp riêng, nhắc ta rằng lòng nhân ái đôi khi không ồn ào, chỉ là một nhịp chèo đều tay, một tiếng ru khẽ, một quyết định sang nốt “bến thứ mười ba” của đời người.

Ở phía sau các bờ bến ấy, văn chương của ông lặng lẽ làm công việc mà văn chương nên làm là cứu rỗi sự bình tĩnh và lòng tin ở con người cho chính chúng ta, những độc giả đang đứng ngẩn ngơ giữa hai bờ.

Nguyễn Việt Chiến

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/doi-song-van-hoa/nha-van-suong-nguyet-minh-nghe-thuat-ke-chuyen-cua-long-trac-an-i784144/