Nhà Bác học Lê Quý Đôn với Tuyên Quang
Ngày 31/10/2025, kỳ họp lần thứ 43 của Đại hội đồng Liên hợp quốc UNESCO đã thông qua nghị quyết vinh danh và cùng tham gia kỷ niệm 300 năm ngày sinh Danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn. Đây là tin vui lớn không chỉ đối với cả nước, mà còn đối với Tuyên Quang. Bởi vì tại Tuyên Quang, Lê Quý Đôn đã ở, làm việc chỉ vài tháng nhưng đã để lại cho đời, cho tỉnh và hai tác phẩm địa chí và lịch sử vô cùng đáng quý, đó là 'Phong vực Tuyên Quang' trong sách 'Kiến Văn tiểu lục' và những tài liệu lịch sử về Vũ Văn Uyên và Vũ Văn Mật 'Phù Lê diệt Mạc' ở Tuyên Quang trong sách 'Đại Việt thông sử' thời kỳ Nam - Bắc triều...
Sự nghiệp đồ sộ của Lê Quý Đôn
Lê Quý Đôn tên thật là Lê Danh Phương, tên chữ là Doãn Hậu, tên hiệu là Quế Đường, ông sinh ngày 5/7 Bính Ngọ, tức là ngày 2/8/1726 trong chiếc nôi "Văn hiến truyền gia" ở làng Diên Hà huyện Diên Hà trấn Sơn Nam Hạ, sau là thôn Phú Hậu xã Độc Lập huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình, nay là Hưng Yên. Tổ tiên của Lê Quý Đôn vốn là dòng họ Lý, truyền đời là dòng dõi thế gia vọng tộc ở huyện Đông Ngàn tỉnh Bắc Ninh. Cụ tổ 5 đời giữ chức binh bộ Thượng thư; Tổ 4 đời làm quan ở huyện Duyên Hà - Thái Bình, sau đổi sang họ Lê định cư ở Diên Hà. Ông nội của Lê Quý Đôn đỗ Tú tài và dạy học. Bố là TS Lê Trọng Thứ (1694-1782) làm quan đến Hình bộ Thượng thư, được vua ban tước Công. Mẹ ông là bà Trương Thị Ích con gái TS Hoàng phái hầu Trương Minh Giảng.

Trường THCS Lê Quý Đôn (phường Minh Xuân) mang tên Danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn.
Ngay từ bé, Lê Quý Đôn đã nổi tiếng là "Thần Đồng". 5 tuổi đã đọc kinh thi; 11 tuổi đọc 9-10 chương sử; 14 tuổi đã đọc hết Tứ thư, Ngũ kinh và Chu Tử, một ngày làm 10 bài Phú không cần nháp. Ông càng trở nên nổi tiếng là Thần đồng khi chỉ trong một khoảnh khắc, ông đã hoàn thành bài thơ thất ngôn với đề tài hắc búa mà bạn của bố ông đưa ra, là "Rắn đầu biếng học", bài thơ của ông như sau:
"Chẳng phải Liu điu cũng giống nhà
Rắn đầu biếng học lẽ không tha
Thẹn đèn Hổ Lửa đau lòng mẹ
Nay thét Mai Gầm rát cổ cha
Ráo mép chỉ quen tuồng tếu táo
Lằn lưng cam chịu vệt dăm ba
Từ nay Trâu, Lỗ xin siêng học
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia"
Năm Cảnh Hưng thứ 4 (1743) khi 17 tuổi ông đã đỗ Giải Nguyên (giải nhất) khoa thi Hương ở trường Sơn Nam, sau đó ông ở nhà viết sách suốt 10 năm. Năm 1752, lúc 26 tuổi, ông thi đỗ cả hai khoa thi Hội và Thi Đình với học vị Tam Nguyên Bảng nhãn, được bổ nhiệm chức vụ Thị thư ở Hàn lâm viện. Sau được bổ nhiệm làm Hàn lâm thừa chỉ, sung Tu toản quốc sử quán. Năm Bính Tý 1756 được cử ra giữ chức Liêm phỏng sứ ở Sơn Nam. Sau khi đi Liêm phỏng về, lại được cử đi Hiệp Đồng với các đạo Sơn Tây - Hưng Hóa - Tuyên Quang.
Sự nghiệp của Lê Quý Đôn rất đồ sộ bao gồm: Sử, Thơ văn, chú giải kinh điển, triết học, tổng loại, tạp biên và tồn nghi.
Về Sử ông có các bộ sách: Đại Việt thông sử; Phủ biên tạp lục; Bắc sứ thông lục; Kiến văn tiểu lục.
Về thơ - văn có Quế đường thi tập 4 quyển; Quế đường văn tập 4 quyển; Quế Đường di tập (tồn nghi). Biên tập: có Toàn Việt thi lục 6 quyển với 76 nhà thơ và 897 bài thơ bằng chữ Hán từ đời Lý đến đời Lê Tương Dực. Cuốn Hoàng Việt văn hải là văn xuôi (tồn nghi). Kinh điển: có Thư kinh diễn nghĩa. Triết học: có Quần thư khảo biện 2 quyển; Thánh mô hiền phạm lục 12 quyển; Âm chất văn chú 2 quyển. Tổng loại có: Vân Đài loại ngữ; Kiến văn tiểu lục.
Tồn nghi: Sách: đây là những sách của Lê Quý Đôn bị thất lạc nhưng đã được sử gia Phan Huy Chú viết trong Lịch triều hiến chương loại chí như Diên Hà phả ký; Đăng khoa lục sưu giảng. Trong đó Văn thơ có Quế Đường văn tập; Quế Đường di tập. Chú giải kinh điển có sách dịch kinh phu tuyết; Xuân thu lược luận; Thi thuyết; Lễ thuyết; Liên sơn quy tàng nhị dịch thuyết. Về sử có Quốc sử tục biên. Triết học, khoa học, thi sách có Thiên văn thứ; địa lý ngôn thư; Dân chính thư; Tồn tâm lục; Hoàng triều trị giám cương mục... về Tạp biên và Biên tập có Danh thần lục; Tăng bổ chính yếu đại toàn tập; Tập ứng dụng bang giao tập; Chinh tây toàn tập; sử luật toản yếu. Văn chương hài hước có các bài Mẹ ơi con muốn lấy chồng; Gái quá thì (phú); Lấy chồng cho đáng tấm chồng (kinh nghĩa); chim khôn đậu nóc nhà quan (kinh nghĩa). Tương truyền còn có bài kinh nghĩa Mẹ khuyên con gái về nhà chồng; Tự trách mình cũng là của ông. Qua bấy nhiêu tác phẩm và thể loại, ta thấy Lê Quý Đôn đã để lại cho đời một khối lượng văn sách đồ sộ với nhiều tác phẩm có giá trị lịch sử, đây chính là một nguyên nhân để UNESCO vinh danh ông là Danh Nhân Văn Hóa..
Những nghiên cứu tại Tuyên Quang
Năm 1756 Lê Quý Đôn được nhà Lê cử lên Tuyên Quang để kiểm tra toàn diện, trong đó tập trung vào việc phát hiện ẩn lậu thuế và sự tham những của quan lại địa phương. Lúc này Tuyên Quang bao gồm huyện Yên Bình, Lục Yên của Yên Bái, toàn bộ tỉnh Tuyên Quang (gồm Hà Giang và Tuyên Quang ), huyện Bảo Lạc của Cao Bằng. Tại đây, cùng với những chuyến đi kiểm tra mang tính sự vụ hành chính, Lê Quý Đôn đã thu thập, ghi chép được rất nhiều tài liệu về lịch sử và địa chí của Tuyên Quang.
Nghiên cứu KIẾN VĂN TIỂU LỤC phần "Phong vực Tuyên Quang" thấy từ năm 1756 đến 1777 Lê Quý Đôn viết mấy vấn đề lớn như sau: đó là Địa lý và dân cư; Sản vật của Tuyên Quang; Các dân tộc người Trung Quốc cư trú ở Tuyên Quang; Về việc nộp thuế ở Tuyên Quang; Đường hành quân từ tỉnh lỵ lên Hà Giang và biên giới. Trong đó, việc ông phát hiện ra 16 giống người Trung Quốc ở Tuyên Quang, việc trốn lậu thuế, con đường hành quân lên biên giới là những tài liệu rất quan trọng với hậu thế hôm nay.
Lê Quý Đôn là người đầu tiên trong số các nhà địa lý, sử học viết về Dân tộc học ở Tuyên Quang qua việc tìm ra 16 giống người (dân tộc) Trung Quốc cư trú ở Tuyên Quang, họ có đặc điểm về văn hóa, lối sống như thế nào, từ đó giúp cho triều đình nhà Lê - Trịnh và các triều đại sau tham khảo.
Đấu tranh chống lậu thuế
Khi lên Hiệp đồng tại Tuyên Quang, Lê Quý Đôn đã phát hiện có rất nhiều mỏ, có những mỏ vàng, bạc, mỏ đồng vẫn đang khai thác và thu thuế như mỏ đồng ở Tụ Long, Na Ngọ ( Vị Xuyên); mỏ chì ở Tùng Bách châu Bảo Lạc...
Có nhiều mỏ đã bị bỏ hoang không khai thác.
Có mỏ vẫn khai thác nhưng lại không đóng thuế cho triều đình như mỏ vàng ở Bình Di, Linh Hồ, Tiên Cầu, Bình Ca, Côn Lôn, mỏ Vàng Chân sa ở An Long, Phương Độ, Bình Hành; mỏ bạc ở Long sinh, Thủy Động, Minh Tiên, ở Tụ Long, ở Hoa Lâm, Màn Long, Du Già, ở Bắc Túy, ở Đài Mãn, ở Đường Âm, Lạc Thổ...; mỏ đồng ở Bán Gia; mỏ Diêm Tiêu ở Thượng Nông, Yên Biên; mỏ lưu hoàn ở Lạc Nông...
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục trang 748 tập 2 viết rằng:
Văn Đồng lấy danh nghĩa là Thổ tù được cha truyền con nối quản thủ mỏ Tụ Long, thu nộp thuế đồng. Lúc ấy viên quan coi Hộ phiên là Lê Quý Đôn và viên quan xuất nạp là Chu Xuân Hán xét Văn Đồng tội thiếu thuế, tống giam khổ sở không cho về, bắt phải nộp bạc hối lộ đến 3000 lạng. Văn Đồng đút lót cho người coi ngục được thoát ra, về nhà dấy quân làm phản. Nhân lúc sơ hở, kéo quân xông thẳng vào phố Tam Kỳ, trấn thủ là Nghi Trung hầu đóng cổng thành chống giữ. Triều đình hạ lệnh cho Nguyễn Lệ đem quân cứu viện Tuyên Quang… Về việc này, sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn viết rằng:
"Mỏ bạc, mỏ đồng thuộc địa phận làng Na Ngọ, ở trước đồn Tụ Long. Năm Đinh Sửu (1557) niên hiệu Cảnh Hưng, triều đình hạ lệnh cho quan trấn thủ khai mỏ lấy đồng, giao cho đầu mục là Hoàng Văn Kỳ chiêu tập người Hóa Thường (người Nùng Hóa vi) đến trưng và thu thuế khóa, sau em là Hoàng Văn Đồng kế tiếp làm đồn trưởng.
Mỏ đồng mỗi năm nấu được 45 vạn cân, mỗi trăm cân trị giá 9 lạng bạc, dùng trâu hoặc ngựa chở ra bến Hà Giang, giá thuê chẳng qua chỉ một lạng hai phân. ... Quan mua hạng đồng tốt cứ 100 cân trả 20 quan tiền... Khoảng niên hiệu Bảo Thái (1720-1729), mỏ đồng Bán Gia cũng phát đạt thuê hàng vạn người làm, quan trả cho mỗi trăm cân là 12 quan. Nay đồng ở Na Ngọ giá hơi cao, thế mà từ năm Đinh Sửu đến năm Nhâm Thìn (1757-1772) mỗi năm thu thuế đồng chỉ được bạc 800 cân 4 dật là quá nhẹ. Cứ Nguyễn Văn Đối, người nhà Hoàng Văn Đồng nói "quặng sa, nấu 4 lần mới thành đồng, cứ 10 cân đồng,lại phải nấu hai lần nữa mới lọc được bạc độ 7 - 8 phân một vạn cân đồng có thể nấu được 8 hốt bạ" cứ lấy ba, bốn mươi vạn cân mà tính, thì đầu mục người Thổ thu được không phải là ít. Năm Quý Tị (1773) mới sai người khám mỏ đồng, đánh thuế tăng lên một vạn cân nữa, còn bạc thuế vẫn theo như cũ.
Hai cửa ải Bắc Tỉ và Tụ Hà trước vẫn có ngạch thuế, Hoàng Văn Kỳ và Hoàng Văn Đồng nói là bỏ hoang, tự ý chiếm lấy để thu thuế một mình, tại đây họ đã thu 1 gánh gạo hoặc đậu, họ thu đến 10 đấu; 1 hành khách thu 36 đồng tiền; lợn lớn thu 1 quan, hạng nhỏ 6 tiền, nhỏ hơn 4 tiền; ngựa đi đàn 20 - 30 con mỗi con thu 4 tiền; Muối, dầu một đoàn 50 - 60 gánh, thu mỗi gánh 1 tiền... tổng thu mỗi ngày đến 5 - 6 quan tiền, mỗi tháng 6 phiên chợ, mỗi phiên thu hàng trăm quan, nhưng không nộp về triều đình.
Tại cửa ải Phương Độ, thuế công chỉ thu 60 quan, Văn Đồng lĩnh trưng, mỗi năm thu 2000 quan, nhưng chỉ nộp cho quan trưng thu có 1200 quan, còn 800 quan làm của riêng.
Hai cửa ải Nam Ngoại và Kênh Ngoại thuế công có 7 dật bạc, quan bản thổ là Hoàng Văn Đề lĩnh thu, các món lợi mỗi năm được hàng trăm hốt bạc...
Mỏ bạc Nam Đương ở châu Vị Xuyên, trước giao viên quan ở trấn thu thuế, đến năm Bính Tí (1756) Hoàng Văn Kỳ xin tăng bạc thuế, nhân đây để khai mỏ đồng không được triều đình chấp nhận. Năm Đinh Sửu (1757) Văn Kỳ nhờ Phó Hộ phiên xin triều đình mới cho. Nhưng đến năm Quý Mùi (1763), Kỳ lại báo là mỏ ấy hoang phế, rồi tự mình khai khẩn để kiếm lời.
Người bản thổ đều nói 71 cửa tàu (cửa mỏ) mỗi năm thu được không dưới 300 hốt. Văn Kỳ thường mua chuộc phái nhân của các viên quan trấn ải giấu đi. Lê Quý Đôn hỏi những người khác, người ta đều xác nhận lời trên là đúng, thế mới biết cổ nhân nói "Tiền nhiều đến mười vạn, buôn bán được quỷ thần” vì thế bọn này không phát giác ra".
Rõ ràng Hoàng Văn Đồng trốn thuế. Lê Quý Đôn đã phát hiện ra sự gian trá để tham nhũng tiền thuế của Hoàng Văn Đồng và Hoàng Văn Kỳ rồi truy thu thuế và bỏ tù Đồng là đúng. Nhưng cũng chính vì bị truy thu nên Hoàng Văn Đồng mới nuôi ý định trả thù bằng cách lợi dụng thời cơ giặc ở bể nổi lên, Đồng đem quân đánh vào thành Tuyên Quang.
Đến khi bị bắt, lại khan gian rằng đã hối lộ cho Lê Quý Đôn, khiến Lê Quý Đôn bị triều đình bãi chức. Viết về vụ bãi chức này, trong bài giới thiệu về sách Vân Đài loại ngữ của Lê Quý Đôn, nhà nghiên cứu Cao Xuân Huy viết :
"Diên Hà phả ký không nói về việc này, nhưng phần tiểu sử của Lê Quý Đôn đăng trong "Lê Quý Đường tiên sinh tiểu sử" trên Tạp chí Nam Phong số 25 năm 1929 của Phạm Quỳnh thì nói rằng: Hoàng Văn Đồng giành của giành đất, sợ tiên sinh trị tội, bèn đút lót cho tiên sinh 100 nén bạc. Tiên sinh đem ngay số bạc đó trình lên, bề trên rất lấy làm khen, mà lại cho tiên sinh số bạc ấy. Lúc này tên Đồng nhân khi giặc biển hoành hoành, bèn cử binh làm phản ở Tuyên Quang. Những người đố kỵ cho rằng Lê Quý Đôn làm việc ấy là gây biến và xin giáng chức tiên sinh để lấy lòng tên Đồng, tiên sinh bị biếm chức".
Với tài liệu được Tạp chí Nam Phong của nhà văn Phạm Quỳnh thẩm định, chúng ta tin rằng Lê Quý Đôn bị oan, việc ông bị bãi chức là do sự đố kỵ trong giới quan trường mà nên.
Do bị vu cáo oan không đủ căn cứ mà ông bị biếm chức năm 1779, nhưng chỉ hai năm sau, năm 42 Cảnh Hưng (1781) Lê Quý Đôn lại được triều đình phục chức và sung chức Quốc sử Tổng tài, lại bổ ra làm Hiệp trấn xứ Nghệ An, được một số năm lại về triều thăng chức Công bộ Thượng Thư, đứng đầu Bộ Công lúc bấy giờ. Như vậy, chỉ hai năm sau vụ thuế ở Tuyên Quang ông được giải oan và nhận chức cao hơn, đó chẳng qua là "Quan võ thì ghét quan văn dài quần" trong giới quan trường mà thôi!
Đường hành quân bộ và thủy từ Tuyên Quang đi Hà Giang và biên giới
Lê Quý Đôn là người đầu tiên viết về con đường từ Tuyên Quang đi các nơi, đặc biệt là lên biên giới vào thư tịch quốc gia. Ông viết:
..."Năm Tân Sửu ( 1721) niên hiệu Bảo Thái, viên quan trấn thủ Tuyên Quang nói: văn thư từ kinh thành phát giao ra, đường bộ do các trạm xứ Sơn Tây, đến nhà trạm xã Hòa Mục huyện Đông Lan, rồi đến xã Đông Thủy huyện Phúc Yên, là lỵ sở của trấn...". Như vậy năm 1721 xã Đông Thủy đã là lỵ sở hay trấn sở của trấn Tuyên Quang sau thời Nhà Mạc.
"Từ bản trấn đến đồn Trung Mang ( Bảo Lạc), đi thủy, đi bộ đều 15 ngày, lại qua các đồn Yên Biên, Hà Giang và Linh Trường đều 13 ngày, qua các trạm, các ải ven biên giới lại 4 - 5 ngày, qua Đại Miện, Tiểu Miện, Tụ Long và Bình Di lại 5 - 6 ngày nữa...". ...
Về đường hành quân bộ, ông cho biết cụ thể như sau;
..."Đường bộ hành quân từ trấn sở Tuyên Quang đến Hà Giang: một ngày vào Ỷ La, qua Trung Môn, Lang Quán, đến thôn Giang Nôm xã Hùng Dị, một ngày đến xã Hùng Dị; một ngày qua bến Huỳnh, đến xã Vĩnh Khoái tổng Trí Thủy; một ngày đến Thán môn; một ngày qua Đèo Đẩu đến làng Kha, tổng Thổ Hoàng, châu Đại Man, một ngày đến làng Khoáng, xã Thổ Hoàng, một ngày đến làng Tụ xã Sơn Vi, một ngày đến Bán Lương, Bán Ba vượt đèo Lĩnh đến thác Hòa, xã Hành, một ngày đến xã Ngọc Liễn, một ngày qua Lũng Bột, vượt qua đèo Kheo bò lai, đến làng Chưng, xã Hướng Minh, một ngày đến làng Đồng, một ngày qua đèo Lâu, vượt đèo Mỏ Son, qua thôn Mạ Lương xã Bạch Ngọc, đến làng Thảng xã Linh Hồ, một ngày qua đèo Bã, xuống xã Phú Linh, đến làng Lấp, lại đi nửa ngày qua đèo Lâp, đến đồn Ninh Biên, qua sông đến Hà Giang, cộng 14 ngày rưỡi, người thường đi chẳng qua là 8 - 9 ngày, đây là đường chính, hai bên đường đều là dân cư, không hiểm trở lắm.”
Đường thủy hành quân từ trấn sở Tuyên Quang đi Hà Giang: ngược sông Cả (sông Lô) đi lên, một ngày đến ngòi Lậu xã Hùng dị, một ngày đến vạn Bộ xã Bình Sa, một ngày đến Cao Đà, một ngày rưỡi đến Thác Cái xã vị Khê, một ngày đến bến Nùng xã Bạch Sa, một ngày qua cửa sông An Long đến thác Sóng Cát xã Hàng Mai, một ngày đến Hùng Nỗ, một ngày đến Bình Hành, một ngày đến Ngòi Xảo, một ngày đến Thác Phủ (lại có tên nữa là ông quan lớn) xã Giang Khê; một ngày đến ngòi Mũ xã Hướng Minh, một ngày đến ngòi Ngân, một ngày đến thác Bà Lại, một ngày đến ngòi vượt, một ngày đến ao Mè, một ngày đến ngòi Dầu, một ngày đến ngòi Kiệm, một ngày đến thôn cung Thượng xã Phương Độ, một ngày qua Cái Cùng, cây Bưởi, miếu ông Vệ đến phố Hà Giang, cộng 19 ngày rưỡi. Con sông này khá rộng, có 272 ghềnh thác, thế mà thuyền của Diêm hộ Tháp Mai đều có thể đi suốt được, nếu dùng thuyền độc mộc ngược dòng nước mà đi lên, chẳng qua chỉ 8 - 9 ngày có thể đến được. Như vậy đường thủy chậm hơn đường bộ 5 ngày.
Con đường đi lên xã biên giới Tụ Long và Phấn vũ của Vị Xuyên qua quá nhiều khe suối, có lúc đi đường bộ, có lúc phải vượt suối khe bằng bè, có nơi có suối 4 khe, có nơi có suối với 7 khe, 12 khe, 15 khe, 16 khe, thậm chí có con suối có tới 41 khe, cực kỳ nguy nan. Lê Quý Đôn đã viết "Qua hai con khe, đi theo giữa khe, bên trái là khe lớn, bên phải là vách đá, đường rất hiểm trở, qua chợ Ngân Đồng, xóm Án Mã, qua cầu 3 khe, đường đá hiểm trở, đến chỗ ở của Kiêm Vũ trước, đến chợ Tý lão Nhai, cửa ải Bắc Tỷ, lại lội hai khe nhỏ, đến đồn khe Tham Thổ, tới cửa ải, một ngày đóng lại. Khe Tham Thổ rộng chừng 5 trượng, người ta có câu ca rằng “Đi thì Bán Thuẫn, Bán Gia, về thì đèo Dục, cùng là đèo Thung".
Ba vấn đề lớn mà Lê Quý Đôn viết trong phần Tuyên Quang của Kiến văn tiểu lục là: Các giống người Trung Quốc ở Việt Nam; vấn đề thuế; vấn đề đường hành quân lên biên giới là đóng góp rất to lớn không chỉ cho triều đình thời Lê - Trịnh lúc bấy giờ, mà nó là một đóng góp to lớn cho việc nghiên cứu lịch sử, địa lý, văn hóa của Tuyên Quang sau này.
Những nghiên cứu và ghi chép thành tác phẩm của Lê Quý Đôn về lịch sử và địa chí Tuyên Quang đã góp phần vào kho tàng đồ sộ về trí thức của Việt Nam, khiến ông xứng đáng là nhà Bác học của Việt Nam thế kỷ thứ 18, là danh nhân văn hóa thế giới được UNESCO vinh danh.
































