Nguyễn Bá Thiệu - người con ưu tú của quê hương Thọ Sơn
Làm quan dưới triều Nguyễn, từng góp sức bảo vệ thành Hà Nội trước sự tấn công của thực dân Pháp, khi thành Hà Nội thất thủ, ông lui về quê nhà tham gia phong trào Cần Vương. Ông là Nguyễn Bá Thiệu - người con ưu tú của quê hương Thọ Sơn.

Di tích lịch sử văn hóa đền thờ Nguyễn Bá Thiệu được tôn tạo khang trang.
Nguyễn Bá Thiệu sinh ra trong gia đình có truyền thống học hành, làm quan ở làng Thọ Sơn, xã Trường Văn (trước đây là xã Trường Sơn, huyện Nông Cống). Theo gia phả dòng họ, tổ tiên ông vốn người miền ngoài, gặp buổi loạn lạc nên đã tìm vào vùng đất dưới chân núi Phụng Liên, bên sông Yên (và sông Thị Long) lập nghiệp. Tiền nhân họ Nguyễn có nhiều đóng góp cho việc xây dựng, phát triển quê hương. Nguyễn Bá Thiệu có tên húy là Giai, tên chữ Đức Thiệu (có tài liệu ghi là Đức Thiện).
Từ khi còn trẻ, chàng trai Nguyễn Bá Thiệu đã nổi danh hay chữ, lại giỏi võ nghệ nên được người làng quý mến. Như nhiều kẻ sĩ đương thời, với tài năng hơn người, ông dốc sức học hành để ra làm quan phụng sự triều đình, đất nước. Trước khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta (1858), Nguyễn Bá Thiệu đã làm quan cho triều đình nhà Nguyễn. “Năm Tự Đức thứ 11 được giữ chức Chánh Thư lại, Nhất Thừa biện. Lúc đó vì trong doanh Hổ Uy còn khuyết chức quan Ngạch ngoại Thư lại Sung Thừa biện, triều đình cho khảo xét trong doanh vệ, thấy ông là người biết về bút mực nên được quan Phó Vệ úy, Nghĩa Vũ vệ họ Dương, tấu xin ban cho chức còn khuyết, đồng thời cho theo quan Điền tịch Thừa biện lo các công vụ, ghi chép sổ sách công việc trong nội binh” (sách Di tích và danh thắng Thanh Hóa).
Về sau, ông được giao đóng giữ đồn Cống Mang, lại được ban thêm chức Soái lĩnh các quân trong đội, kiêm trông coi việc giữ binh khí; rồi Chánh đội trưởng, Soái đội, Soái nội đội binh. Là viên quan mẫn cán, trách nhiệm, ông luôn cẩn trọng hoàn thành mọi trọng trách được giao phó, được vua Tự Đức nhiều lần ban khen.
Năm 1858 thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, sau đó từng bước thôn tính các vùng đất. Năm 1880, Nguyễn Bá Thiệu được triều đình điều ra Hà Nội, hỗ trợ Tổng đốc Hoàng Diệu bảo vệ thành Hà Nội.
Năm 1882, thực dân Pháp tấn công thành Hà Nội lần thứ 2. Kẻ địch xấc xược gửi tối hậu thư yêu cầu quân đội hạ vũ khí, binh lính rời khỏi thành và các quan văn võ phải đầu hàng nộp mình. Không run sợ, dưới sự chỉ huy của Tổng đốc Hoàng Diệu, Nguyễn Bá Thiệu và quan lại, tướng sĩ quyết tử giữ thành. “Bọn giặc cố trèo lên thành, quân triều đình chống cự ác liệt, nhiều tên đã bị thiệt mạng. Quan quân vừa đánh vừa hô dân phố khua thanh la, thúc trống, Nguyễn Bá Thiệu hạ được một viên sĩ quan Pháp. Ngày hôm đó thành Hà Nội bị thất thủ, Tổng đốc Hoàng Diệu tự vẫn, các tướng lĩnh tan rã” (sách Người và cảnh Hà Nội, NXB Hà Nội - 1982).
Sau khi thành Hà Nội thất thủ, Tổng đốc Hoàng Diệu tự vẫn, Nguyễn Bá Thiệu quyết không đầu hàng kẻ xâm lược. Bấy giờ, biết tin ở quê nhà xã Hương Trì (tên vùng đất Trường Văn thời Nguyễn) phong trào Cần Vương đang phát triển. Vì thế, Nguyễn Bá Thiệu đã tâu lên triều đình xin được về quê nghỉ dưỡng già, tuy nhiên thực chất là để tham gia phong trào Cần Vương đánh thực dân Pháp xâm lược.
Trước đó, trên vùng đất Hương Trì, dưới sự lãnh đạo của Tú Phương (Nguyễn Ngọc Phương) phong trào Cần Vương đã được xây dựng và phát triển, dần mở rộng. Nghĩa quân bắt mối với các Lang đạo người Thái ở đất Kỳ Thượng xây dựng căn cứ Ổn Lâm - Kỳ Thượng để phục vụ cho mục tiêu đánh Pháp lâu dài. Sự xuất hiện của Nguyễn Bá Thiệu - viên quan từng có sự dạn dày kinh nghiệm trong chiến đấu với thực dân xâm lược được nghĩa quân chào đón. Tại đây, Nguyễn Bá Thiệu có nhiều hoạt động tích cực trong việc phối hợp các cuộc khởi nghĩa ở vùng Nam Thanh - Bắc Nghệ.

Với những đóng góp trong lịch sử dân tộc, Nguyễn Bá Thiệu được hậu thế lập đền thờ tưởng nhớ.
Tuy nhiên, khi phong trào Cần Vương đang phát triển, Nguyễn Bá Thiệu trở bệnh nặng và qua đời. Thi hài ông được an táng dưới chân núi Phụng Liên trên quê nhà Hương Trì (nay thuộc xã Trường Văn). Với niềm kính trọng dành cho ông, con cháu dòng họ và người dân địa phương đã lập đền thờ, quanh năm hương khói.
Theo lưu truyền dân gian, gia phả dòng họ và tài liệu địa phương, trong thời gian tham gia bảo vệ thành Hà Nội, Nguyễn Bá Thiệu từng giữ chức Phó Đề đốc?! Vì thế, người dân quê nhà thường gọi ông là Đề Thiệu (đền thờ Đề Thiệu). Theo sách Lịch sử Đảng bộ xã Trường Sơn (NXB Lao động, 2024): “Làng Thọ Sơn có ông Nguyễn Bá Thiệu thuộc họ Nguyễn Văn là người có đức, có tài được phong là Đề Thiệu, ông làm Phó Đề đốc cho ông Hoàng Diệu - Tổng đốc Hà Nội”.
Hơn 100 năm trước, đền thờ Đề Thiệu được xây dựng rộng rãi, vững chãi theo lối kiến trúc thời Nguyễn với tiền đường 5 gian và hậu cung 3 gian. Trải qua biến thiên thời gian và chiến tranh bom đạn tàn phá, đền thờ bị hư hỏng khá nhiều. Sau này, con cháu trong dòng họ và người dân địa phương đã chung tay đóng góp kinh phí tôn tạo đền thờ tiền nhân thêm phần khang trang. Ông Nguyễn Văn Luật, hậu duệ dòng họ Nguyễn trông coi đền thờ, cho biết: “Ngôi đền dù không còn nguyên vẹn theo kiến trúc buổi ban đầu song vẫn còn lưu giữ nhiều hiện vật cổ mang phong cách thời Nguyễn như sắc phong, hương án, ngai thờ, câu đối, khám thờ, mâm bòng... Hằng năm, vào ngày 5 tháng 10 (âm lịch) - ngày mất của cụ Đề Thiệu, con cháu trong dòng họ và người dân lại tề tựu về đền thờ thắp nén tâm hương tưởng nhớ người xưa”.
Với những giá trị văn hóa, lịch sử lưu giữ, đền thờ Nguyễn Bá Thiệu đã được xếp hạng Di tích cấp tỉnh. Ông Nguyễn Văn Việt, Phó trưởng Phòng Văn hóa - Xã hội xã Trường Văn cho biết: “Trên vùng đất Hương Trì xưa, nay thuộc xã Trường Văn, cùng với Tú Phương (Nguyễn Ngọc Phương), Đề Thiệu (Nguyễn Bá Thiệu) là nhân vật lịch sử tiêu biểu trong phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX. Tên tuổi ông được sử sách ghi danh, hậu thế nhắc nhớ, biết ơn”.