Nguồn nhân lực hàng không: Thách thức lớn giữa đà tăng trưởng mạnh
Ngành hàng không Việt Nam đang trải qua giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất trong nhiều năm trở lại đây, với tốc độ mở rộng hạ tầng, tăng trưởng đội tàu bay và lưu lượng hành khách đều ở mức cao. Thế nhưng, đi kèm với đó là một thực tế đáng lo ngại: nguồn nhân lực hiện tại chưa đủ sức đáp ứng cả về số lượng lẫn chất lượng.
Nhu cầu bùng nổ, nguồn cung chưa kịp đáp ứng
Theo ông Trần Anh Tuấn - Phó Chủ tịch Hội Giáo dục nghề nghiệp TP. Hồ Chí Minh, hiện toàn ngành chỉ có khoảng 44.000 nhân lực, một con số chưa tương xứng với nhu cầu vận hành của các sân bay lớn cũng như tốc độ tăng trưởng chung. Sức ép sẽ càng lớn hơn khi Cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1 dự kiến đưa vào hoạt động năm 2026. Đến năm 2030, nhu cầu nhân lực được dự báo sẽ tăng mạnh ở hầu hết các vị trí, từ phi công, tiếp viên, kỹ thuật viên bảo dưỡng, vận hành sân bay, an ninh hàng không đến các chuyên gia trong lĩnh vực kinh doanh, marketing và tài chính.

Đến năm 2030, nhu cầu nhân lực ngành hàng không được dự báo sẽ tăng mạnh ở hầu hết các vị trí
PGS.TS. Nguyễn Hữu Hiếu - Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa (Đại học Đà Nẵng) nhận định, hàng loạt dự án mở rộng sản xuất và nâng cấp hạ tầng sẽ kéo theo nhu cầu nhân lực chất lượng cao ở nhiều mảng như kỹ thuật bảo dưỡng, quản lý vận hành, thiết kế và chế tạo linh kiện hàng không. Tuy nhiên, nguồn nhân lực trong nước vẫn chưa theo kịp tốc độ này. Nhiều doanh nghiệp đang thiếu hụt kỹ sư lành nghề, chuyên gia bảo trì, vận hành và thiết kế máy bay, đặc biệt ở những vị trí đòi hỏi kỹ năng chuyên sâu về cơ khí hàng không.
Trong bối cảnh đó, các trường đại học và cao đẳng đang nỗ lực xây dựng chương trình đào tạo phù hợp. Chính phủ cũng thúc đẩy chiến lược phát triển hạ tầng hàng không, tạo điều kiện để mở rộng quy mô đào tạo. Tuy nhiên, với lượng khách hiện tại, nhân lực đã thiếu; khi các dự án mới vận hành, tình trạng này có thể trở nên nghiêm trọng hơn, đặc biệt ở các lĩnh vực như giám sát sân bay, quản trị không lưu, kỹ sư máy bay, bảo dưỡng máy bay và phi công chuyên nghiệp.
Sinh viên ngành hàng không hiện có nhiều cơ hội việc làm tại các doanh nghiệp và hãng hàng không lớn như VAECO, UACV, VietJet Air, Vietnam Airlines, Bamboo Airways… Lương khởi điểm của ngành này cũng ở mức hấp dẫn. Tiếp viên hàng không có thể nhận từ 20 đến 60 triệu đồng mỗi tháng, phi công lái máy bay đạt mức 180 đến 300 triệu đồng. Các vị trí khác như nhân viên mặt đất, lái xe vận hành thiết bị, nhân viên chất xếp hành lý, an ninh hàng không, kỹ thuật hàng không dao động từ 8 đến 50 triệu đồng tùy công việc.
TS. Trần Mạnh Thành - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Bách khoa Bách Việt cho biết, nhu cầu nhân lực rất lớn nhưng khu vực phía Nam lại có rất ít trường đào tạo ngành liên quan. Trường hiện đào tạo hai ngành quản trị kinh doanh vận tải hàng không và dịch vụ thương mại hàng không, nhận được nhiều đơn đặt hàng nhân sự từ các đơn vị nhưng vẫn không đáp ứng đủ. Khác với chương trình đại học kéo dài bốn năm, các chương trình cao đẳng ngành hàng không chỉ mất từ 2 đến 2,5 năm. Nhiều sinh viên tìm được việc đúng chuyên ngành ngay khi đang thực tập, với mức lương 20 – 25 triệu đồng/tháng.
Chương trình học tại nhiều cơ sở đào tạo được xây dựng bởi các chuyên gia giàu kinh nghiệm từ các hãng hàng không, học viện hàng không, viện logistics… đáp ứng tiêu chuẩn của Cục Giáo dục nghề nghiệp – Giáo dục thường xuyên (Bộ Giáo dục và Đào tạo), Cục Hàng không Việt Nam và các tổ chức hàng không quốc tế như ICAO, IATA. Đặc biệt, với ngành dịch vụ thương mại hàng không, sinh viên phải hoàn thành 700 giờ thực tập nhận thức và nghề nghiệp tại các công ty phục vụ mặt đất, công ty phục vụ hàng hóa, cảng hàng không và hãng hàng không.
Dù vậy, việc đào tạo nhân lực hàng không vẫn đối mặt với nhiều thách thức. Thứ nhất là hạn chế về cơ sở vật chất và thiết bị kỹ thuật. Ngành hàng không đòi hỏi hệ thống phòng thí nghiệm, mô hình máy bay và thiết bị mô phỏng hiện đại để phục vụ giảng dạy và nghiên cứu chuyên sâu. Nhiều trường đại học ở Việt Nam chưa có khả năng đầu tư đầy đủ, khiến việc học tập của sinh viên chưa đạt chuẩn quốc tế.
Thứ hai là thiếu đội ngũ giảng viên có kinh nghiệm thực tế. Số lượng giảng viên có trình độ cao trong ngành hàng không vẫn hạn chế, đặc biệt ở các mảng thiết kế, sản xuất và bảo trì máy bay. Việc gửi giảng viên ra nước ngoài để đào tạo chuyên sâu đòi hỏi nhiều thời gian và chi phí, trong khi chính sách thu hút nhân tài trong nước vẫn chưa đủ cạnh tranh. Thêm vào đó, hiện tượng “chảy máu chất xám” diễn ra khá rõ rệt: nhiều nhân lực chất lượng cao sau khi được đào tạo lại chọn làm việc ở nước ngoài, nơi có chế độ đãi ngộ hấp dẫn hơn.
PGS.TS Trần Thiên Phúc - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh) cho rằng, để nâng cao chất lượng đào tạo, các trường cần cải tiến chương trình theo chuẩn quốc tế, tạo môi trường học tập gắn với thực tiễn. Quan trọng hơn, cần xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa nhà trường và doanh nghiệp. Mô hình “học kỳ doanh nghiệp” đang được triển khai, theo đó sinh viên ưu tú được gửi đến các công ty hàng không để trải nghiệm môi trường làm việc thực tế, từ đó nâng cao kỹ năng và cơ hội được tuyển dụng ngay sau khi tốt nghiệp.
Đối diện áp lực cạnh tranh về nhân lực, các chuyên gia cho rằng, giải pháp cần triển khai đồng bộ, từ nâng cấp cơ sở vật chất, đầu tư thiết bị huấn luyện hiện đại, mở rộng hợp tác quốc tế, đến xây dựng chính sách đãi ngộ và lộ trình nghề nghiệp rõ ràng cho người lao động. Việc khuyến khích sinh viên ngành hàng không tham gia các chương trình thực tập, trải nghiệm ở nước ngoài cũng sẽ giúp nâng cao năng lực và kỹ năng hội nhập.
Ngành hàng không vốn là lĩnh vực đòi hỏi tiêu chuẩn khắt khe, từ kỹ thuật vận hành đến dịch vụ khách hàng. Mỗi vị trí, từ phi công, tiếp viên, kỹ sư bảo dưỡng đến nhân viên an ninh hay điều phối không lưu, đều giữ vai trò quan trọng trong vận hành an toàn và hiệu quả. Vì vậy, chiến lược phát triển nhân lực hàng không không chỉ là câu chuyện của riêng các trường đào tạo hay doanh nghiệp, mà cần sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, nhà trường và ngành nghề.
Khi khoảng cách giữa nhu cầu và khả năng cung ứng nhân lực được thu hẹp, Việt Nam không chỉ đảm bảo hoạt động hàng không an toàn, ổn định, mà còn tạo nền tảng để ngành này vươn lên tầm khu vực và quốc tế. Và đó sẽ là lúc cơ hội phát triển của hàng nghìn sinh viên, kỹ sư, phi công và chuyên gia hàng không được mở rộng hơn bao giờ hết.