Người xứ Lường

Tôi đang xoải cạnh một lão xứ Lường! Tuổi đã cao. Như chuyến du hí lên trang trại Sóc Sơn của cô bạn học Kim Dung đây, sải bước thăm thú mãi cũng mỏi nên buổi trưa phải xoài nửa nằm nửa ngồi ở phòng khách. Cái kiểu xoải của cánh già thường là chuyện nối chuyện...

1. Tôi đương tiện mồm thao thao về quê lão, cái xứ Lường của Đô Lương, Nghệ An; về cái câu “Trai Cát Ngạn gái Đô Lương”. Trai thì cái thằng tôi chả để ý mấy. Chỗ gần gụi đủ độ thân mật nên tôi cứ thẳng tuột thời trai trẻ có mấy bận dài ngày công tác xứ Lường, Đô Lương… Bén duyên thì không nhưng khá ấn tượng về đức tính lam làm chịu thương chịu khó của cánh liền bà Đô Lương. Nói đẹp thì chưa hẳn nhưng hình như o mô cũng có chút duyên thầm. Như cái duyên vòng 1 thì hầu hết con gái xứ này tạo hóa biệt đãi cho độ phồn thực sung mãn. Bao thế hệ người xứ Lường nhớn nhao phương trưởng dưới cái tầm phồn thực sung mãn ấy rồi nhỉ?

Vợ chồng Cảnh Nam - Thu Hà.

Vợ chồng Cảnh Nam - Thu Hà.

Đương đắc chí tưởng mình biết nhiều hóa ra chỉ trớt quớt. Như cái bến đò Lường. Lão cắt ngang bằng chất giọng thủng thẳng khiến mình cụt hứng. Hóa ra con sông Lường là một thứ địa danh chập chờn. Sông Lường chỉ là tên gọi một khúc của dòng sông Lam xiết băng từ xứ Lào miên man qua vùng đất Đô Lương với chiều dài đâu như hơn 6 cây số. Rồi chợt tỉnh thêm rằng cái lão đương xoài bên tôi đây là hậu duệ của một dòng họ Nguyễn Cảnh kiệt hiệt của xứ Lường. Chả phải kiệt hiệt theo kiểu ăn mày dĩ vãng mà anh em nhà lão hồi tu nghiệp ở Đông Âu đã nổi danh về sự học cũng như cái khiếu làm ra tiền.

Chuyện này xin được nói khi khác. Đương hóng tiếp chuyện người xứ Lường. Chuyện các cụ nội của lão…

2. Ông nội sinh ra đã mồ côi bố. Cố nội bị ốm, mất trước đó 6 tháng. Bà cố nội quê ở Diễn Châu, tục gọi bà Tú Lường khi đó mới 22 tuổi, trẻ trung xinh đẹp khi chồng mất nhưng đã ở vậy nuôi con. Sau này được nhà vua ban bảng vàng “Tiết hạnh khả phong” là cả một câu chuyện dài.

Bố mất sớm, ông được mẹ và ông nội là cụ Nguyễn Cảnh Côn (hậu duệ đời 15 dòng họ Nguyễn Cảnh Chân) nuôi dạy, rèn giũa. Không may, có một biến cố bi thảm. Cụ Nguyễn Cảnh Côn, một trung quân ái quốc, thường xuyên tiếp tế lương thực, tiền bạc ủng hộ nghĩa quân Cần Vương chống Pháp ở trại Lạt, Tân Kỳ. Có kẻ xấu tuy là thông gia nhưng lại ghen ghét với gia thế nhà cụ nên ngấm ngầm theo dõi và mật báo cho giặc Pháp, nửa đêm đưa quan Tây tới tận nhà bắt quả tang với đầy đủ vũ khí, lương thực…

Mờ sáng, cụ bị chặt đầu và bêu xác trên cây tre tại chợ Lường để thị uy dân chúng. Sau 3 ngày, quân Pháp rút đi giao lại cho lính Nam triều canh giữ xác và đầu. Lúc bấy giờ bà cố nội đào hầm giấu con trong vườn rồi chít khăn tang, đầu đội Kim bài Vua ban, một mình vác dao rựa ra cổng chợ. Thấy Kim bài, quan quân Nam triều canh gác hoảng sợ quỳ xuống lạy, không dám cản trở bà. Với thân hình nhỏ nhắn, bà chặt cây tre xuống, gỡ xác bố chồng, buộc sau lưng, một tay ôm đầu cụ trước ngực, một tay kéo lê xác từ cổng Chợ Lường về đến nhà. Không có quan tài, cũng không có ai dám giúp sức, bà một mình đào huyệt an táng bố chồng dưới gốc cây thị trong vườn.

Đúng 100 ngày, buổi sáng làm cơm cúng bố chồng xong, đầu đội khăn tang kèm Kim bài, bà cố nội leo lên cây thị, cuốn cái mo cau làm loa vạch mặt kẻ gian tế đã hãm hại bố chồng bà. Tiếng loa lanh lảnh của bà tố cáo cho dân làng biết hành vi của kẻ đã lợi dụng tình thân mà do thám đường đi nước bước của bố chồng bà và nghĩa quân. Nhờ tiếng loa mo cau, dân làng mới biết rõ bộ mặt gian xảo của kẻ phản dân hại nước mang danh tiến sĩ, từng giả vờ theo hịch Cần Vương.

3 ngày liền, bà nguyền rủa cầu cho trời tru đất diệt kẻ lòng lang dạ sói, ăn lộc vua mà bán nước cầu vinh. Quá xấu hổ vì bị vạch mặt giữa thanh thiên bạch nhật, kẻ đó và gia đình đã phải bỏ quê phiêu bạt đi nơi khác rồi chết trong ô nhục, bị tiếng xấu đeo đuổi suốt đời…

3. Lão dừng lời nhổm lên nhấp ngụm nước rồi thở dài về người ông nội tiết tháo. Ông nội không màng đến chức quyền cho dù truyền thống gia đình, năng lực và cơ hội có thừa. Thời xưa những vị quan trung nghĩa không bị địch giết thì cũng bị hãm hại, đó là lẽ thường mà cụ tổ Nguyễn Cảnh Chân là một ví dụ điển hình. Thế nên cụ truyền cho con cháu rằng, chớ có dại mà dây vào trò chơi quyền lực. Về học thức, cần phải học chữ đủ để hiểu biết sự đời, nhưng không cần ham hố bất kỳ phẩm hàm, danh vị nào cả.

Thời thuộc Pháp, ông từng cho cả 4 con trai và cháu đích tôn đi học ở College de Vinh, ngôi trường danh giá nhất vùng Thanh - Nghệ -Tĩnh với học phí 18 đồng/ tháng. Thời đó 5 đồng là 1 tạ gạo, nghĩa là ông đã bỏ ra một gia sản cực lớn chỉ để kiếm tìm con chữ cho các con. Tuy nhiên, ông luôn dặn con cái đừng quan tâm tới học vị làm gì. Các thế hệ cháu chắt của cụ, kể có đến hàng trăm, học hành đến nơi đến chốn nhưng hầu hết đều hững hờ với các danh vị GS, TS này khác, chắc có phần ảnh hưởng từ cụ nội? Nghe hơi giật mình, phải vậy chăng mà hai anh em ruột nhà lão Nguyễn Cảnh Nam, Nguyễn Cảnh Hoàng này học giỏi có tiếng, sau này vui với phận sự làm khoa học mà gia sản cũng chỉ thường thường bậc trung?

Câu chuyện của lão mỗi lúc thêm cuốn hút về ông nội, người đàn ông quyền uy và hào sảng nhất xứ chợ Lường. Câu cửa miệng của ông “tiền là lá mít”, đủ sống phong lưu là được chứ không nên lao tâm khổ tứ. Có cái lạ, cụ kiếm tiền dễ dàng, ung dung nữa là khác. Dân chúng xứ chợ Lường vẫn kể, chẳng ai biết ông kiếm tiền kiểu gì, chỉ biết ông là người luôn sẵn tiền. Ruộng, nhà ông chỉ có 2,7 mẫu, cho người cấy rẽ. Đến mùa, ông chỉ lấy mỗi một cối thóc để hưởng chút cơm gạo mới! Mỗi tối, ông giắt 1 đồng đi đánh tổ tôm và thường là thắng. Cuối buổi, ông chia hết cho đám chầu rìa.

Chuyện gần chuyện xa, nhưng hấp dẫn vẫn là chuyện bà cố nội. Mẹ ấy tất có con ấy. Hình như tính khí, nhân cách người con trai cũng được thừa hưởng từ người mẹ?

Mẹ ông nội, bà Phạm Thị Tảo sinh năm Canh Thân (1860), con gái cử nhân Phạm Đăng Tuấn, em gái cử nhân Phạm Văn Khoa, quê ở làng Phượng Lịch (xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, Nghệ An cũ). Cha là Phạm Đăng Tuấn, Án sát tỉnh Ninh Bình; anh là Phạm Văn Khoa làm quan triều đình Huế. Gia đình quan Án sát Phạm Đăng Tuấn là một trong những gia đình nhà quan thanh liêm, giàu lòng yêu nước dưới triều Tự Đức. Các sĩ phu yêu nước thường lui tới đàm đạo việc lớn.

Sự kiện thành Ninh Bình thất thủ, bà Phạm Thị Tảo mới 12-13 tuổi nhưng đã biết nguyên nhân giặc Pháp chiếm được Ninh Bình chính là vũ khí của giặc tối tân hơn vũ khí của quân lính một tỉnh.

Không những sớm hiểu biết về nhân luân đạo lý, nhân tình thế thái mà bà còn hiểu biết luật lệ triều đình: "Người làm quan có trọng trách giữ thành, giữ đất, giữ tỉnh, bảo vệ dân mà để mất thành là phải tội chém đầu".

Một việc hy hữu đã diễn ra. Cô bé Phạm Thị Tảo đã đệ đơn lên vua Tự Đức tình nguyện chết thay cha để cha có cơ phụng dưỡng bà nội khi đó trên 90 tuổi.

May mắn làm sao Vua Tự Đức sau khi xem đơn, đã tha tội chết cho quan án sát Phạm Đăng Tuấn nhưng vẫn phải bị lưu đày lên Lạng Sơn. Nghĩa cử của bà không chỉ ở Diễn Châu, Nghệ An mà đã lan rộng ra cả nước lúc bà đang tuổi thiếu niên.

Bà Phạm Thị Tảo không những là người hiếu thảo, còn là người hết lòng yêu nước, thương dân. Như đã nói, bà góa chồng từ năm 27 tuổi. Chồng bà chàng Nguyễn Cảnh Đỉnh đậu tú tài, khôi ngô tuấn tú. Mối tình xứng đôi vừa lứa! Chồng tuổi 25, vợ là con quan đẹp người đẹp nết, tuổi vừa đôi mươi. Cô gái Phạm Thị Tảo theo phong tục cổ truyền đã trở thành bà Tú Lường khi mới 20 tuổi. Ông Tú Lường đột ngột qua đời, bà Tú chịu cảnh "mẹ góa con côi" một mực thờ chồng, nuôi con hiếu thảo.

Cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng làm chấn động cả nước. Người Nghệ nhắc nhiều tới Tướng Nguyễn Văn Ngợi (tức Tác Bảy, dưới trướng của Nguyễn Xuân Ôn) đã giết được tên thiếu úy Le Coóc, chỉ huy quân Pháp và quân Nam triều tại trận Cồn Voi, làm cho bọn Pháp kinh hồn bạt vía.

Giặc Pháp điên cuồng tìm cách bắt thủ lĩnh Nguyễn Xuân Ôn trên giường bệnh vào tháng 7/1887. Rồi lực lượng nghĩa quân mỏng dần, lương thảo thiếu thốn. Nhờ nội gián, chúng đã bắt được tướng Ngợi đem về quê làng Chùa Me, giết ông và đốt phá cả làng cho hả. Nhân dân làng Chùa Me phải phiêu tán khắp nơi.

Con đường mang tên Phạm Thị Tảo ở Thành Vinh.

Con đường mang tên Phạm Thị Tảo ở Thành Vinh.

Làng Chùa Me điêu tàn hoang phế. Bà Tú Lường rất đau xót nghĩ cách khôi phục. Dựa vào uy tín của cha là quan án sát và anh ruột Phạm Văn Khoa, bà đứng đơn xin phép khai hoang vùng đất cũ làng Chùa Me. Bà bỏ tiền của và quyên góp cùng các nhà hảo tâm kêu gọi nhân dân phiêu tán về làm ăn sinh sống trên mảnh đất cũ. Chẳng bao lâu, làng Chùa Me lại sầm uất như cũ. Dân làng cảm công ơn to lớn, đức độ lớn lao ấy xin phép bà được đổi tên làng Chùa Me thành làng Đạo Lý.

Ngày 19/5 năm Nhâm Thân (1932), bà quy tiên hưởng thọ 73 tuổi. Nhân dân làng Đạo Lý nhớ công ơn của bà Tú Lường Phạm Thị Tảo đã lập đền thờ bà và lên Đô Lương xin chân hương về thờ bà vào các ngày Tết ngày giỗ và ngày vọng hàng tháng...

Buổi chiều oi ả, chúng tôi rời trang trại làng Sóc trong tâm trạng êm ả bởi được chứng kiến một quá vãng kiêu hùng. Ông bạn già không quên nhắc bây chừ nếu qua Nghệ An nhớ ghé một đường phố ở Thành Vinh được mang tên bà, đường Phạm Thị Tảo (thuộc phường Bến Thủy dài 300 mét, điểm đầu là đường Phong Đình Cảng, điểm cuối là đường Võ Thị Sáu). Và có qua Đô Lương nhớ đến Đền thờ Nhà thờ họ Nguyễn Cảnh tại xã Đông Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Di tích Lịch sử văn hóa cấp tỉnh này là nơi thờ ông bà ông Tú Lường và các vị Tiên tổ của chi họ Nguyễn Cảnh ở xã Đông Sơn.

Xuân Ba

Nguồn ANTG: https://antgct.cand.com.vn/chuyen-de/nguoi-xu-luong-i779747/
Zalo